Showing posts with label Anhhùng nước Việt. Show all posts
Showing posts with label Anhhùng nước Việt. Show all posts

Saturday, April 30, 2016

Đặng Chí Bình đệ nhất anh hùng VNCH

Đặng Chí Bình đệ nhất anh hùng VNCH

Năm 1962 trong khi chúng ta đang sống ở Sài gòn an bình phồn thịnh thế mà anh hùng biệt kích Đặng Chí Bình bỏ tất cả để một mình đổ bộ xâm nhập Hà Nội thi hành công tác tình báo.

Kết quả tuy giao xong được 2 mật thư, nhưng sau đó anh Bình đã bị công an bắt được giam ở Hỏa Lò Hà Nội. 

Anh Bình bị đối xử vô cùng khốn khổ còn hơn thú vật, sống không được chết không xong, vì anh bị cùm hai tay hai chân và mồm cũng bị cùm luôn. Hãy nghe 2 audio đọc truyện tại :

Thép Đen 2      &    Thép Đen 3


Kính tặng Đặng Chí Bình:

Sunday, April 24, 2016

Thế giới ca ngợi TT Ngô Đình Diệm

Thế giới ca ngợi TT Ngô Đình Diệm

Hà Xuân Thụ

Trong bài viết Thiếu Sinh Quân lừng danh quân sử, tôi hết lời ca ngợi Tổng Thống Ngô Đình Diệm nhưng vẫn còn thiếu sót nhiều.

Với những nỗi niềm tiếc thương vô hạn cho nước Việt Nam Cộng Hòa và Tổng Thống Diệm, nhà ái quốc vĩ đại, vô cùng liêm khiết, một tín đồ thiên chúa ngoan đạo, trọn đời độc thân.  Tôi trích đăng thêm bài viết dưới đây:


Tổng Thống Ngô Đình Diệm Dưới Cái Nhìn Của Các Lãnh Tụ Hoa Kỳ, Đông Nam Á, Và Các Quan Sát Viên Quốc Tế


Nguyễn Anh Tuấn

14 -10 - 2015


Trong sưốt 40 năm hải ngoại, tôi có dịp nghe rất nhiều người nói về TT Ngô Đình Diệm. Những người thù ghét ông, lên án ông là con người độc tài, gia đình trị, Công giáo trị và kỳ thị Phật giáo. Ngược lại những người thương tiếc và tôn sùng ông thì ca ngợi ông đủ điều.

Con người thật của nhân vật Ngô Đình Diệm, và Cuộc Cách Mạng Dân Chủ Mà Ông Thực Hiện Suốt 9 Năm (!954-1963) để xây nên Hòn Ngọc Viễn Đông cho Miền Nam Việt Nam (MNVN) thì không mấy ai biết đến nơi đến chốn.

Phần thưởng dành cho ông là những đòn thù đâm chém tơi bời lên lưng ông suốt 9 năm, đã dưa đến cái chết thảm khốc kinh hoàng cho ông và bào đệ ông là Ngô Đình Nhu. Vì thế, những bế tắc của lịch sử không làm sao khai thông được.

Cả hai sự khen chê của những người Việt Nam thường chủ quan và thiên kiến, chỉ nhận xét hời hợt ngoài da hay mặt nổi của những hiện tượng xảy ra cho đất nước, nên rất thiếu giá trị khách quan, thiếu công bình và giá trị vững chắc.

Tuyệt nhiên tôi không thấy ai đào sâu hơn, bằng cách sử dụng sử quan, tức là nhìn con người ấy sống ra sao, đã làm những gì trong một bối cảnh lịch sử VN ở thời điểm tăm tối nhất, đau thương nhất và hỗn loạn nhất như thế, để từ đó đưa ra nhận định và phán xét về một nhân vật lịch sử có ảnh hưởng lớn lao, không chỉ trên đất nước Việt Nam mà cả toàn vùng Đông Nam Á cũng như Hoa Kỳ và thế giới. Một nhân vật lịch sử TT Diệm có tầm cỡ lớn lao, nếu chỉ khen chê theo cảm tính và bản năng sẽ không bao giờ thấy được Sự Thật Của Lịch Sử. Muốn thay đổi và chuyển hóa vận mệnh và sinh mệnh cho đất nước, phải tìm cho ra Sự Thật Của Lịch Sử.

1- Trong mấy chục năm mòn mỏi tìm kiếm mẫu người điển hình lý tưởng Việt Nam Cộng Hòa của MN, sau khi đã nhìn rõ chân dung man rợ mẫu người XHCN của cách mạng CS, tôi vẫn không biết tìm ở đâu? 

40 năm sau, tôi chợt nhớ tới Con Người VNCH Điển Hình Nhất - Chính Là Người Cộng Hòa Đã Đặt Viên Đá Đầu Tiên Để Xây Nên Nền Đệ I Việt Nam Cộng Hòa ngày 16 tháng 7-1955, và chỉ sau 9 năm đã dựng nên Hòn Ngọc Viễn Đông cho dân cho nước của ông. Nhưng con người VNCH đầu tiên này đã bị gục ngã thảm thiết bởi chính bàn tay của những người VN cùng người bạn Mỹ của ông.

Theo cuộc điều tra tỉ mỉ của Tướng Thomas Lane, “âm mưu cạm bẫy đã được dàn dựng bởi những người CS ngoại hạng và siêu quần bạt chúng… Hồ Chí Minh đã vẽ ra một kế họach để sử dụng các nhà sư đội lốt tại MNVN, nơi đó họ có thể khuấy động tơi bời liên tục sự xung đột tôn giáo… Cuộc vận động quá nhơ nhớp bẩn thỉu đầy âm mưu gian trá, tìm mọi cách che dấu con người thật của TT Diệm và che dấu luôn con người thật của HCM và những người CSVN. Tổng Thống Diệm là một người có đặc tính mẫu mực điển hình của một con người xả kỷ vô ngã, tự quên thân mình để
dâng hiến trọn đời ông cho quê hương xứ sở ông, một con người với giá trị nhân tính sâu thẳm” (trích từ cuốn The Last Of Mandarins Diệm Of Việt Nam của tác giả Anthony Trawick Boucarey, 1965, trong những trang 145 và 146).

2- Trong tập sách của Boucarey, trang 1 có đoạn như sau:

Ngày 16 tháng 11-1964, Đại Sứ Hoa Kỳ, Frederick E. Nolting đã viết một bức thơ cho tờ New York Times như sau:

“Tôi không thể chần chừ cho tháng ngày qua đi mà không nói lên sự kính trọng của tôi khi tưởng nhớ đến một con người can đảm phi thường đã gục chết vì quê hương của ông một năm trước đây, người đó chính là Ngô Đình Diệm, cựu TT VNCH.

Những biến cố xảy ra từ khi lật đổ và ám sát ông vào tháng 11, những tia sáng được bật lên để soi vào những vấn đề mà ông phải đối mặt đương đầu trong suốt 9 năm ông làm TT trong một xứ sở có quá nhiều thương đau.

Trong những hoàn cảnh khó khăn và phức tạp, chính quyền của ông đã gặt hái được những thành quả lớn lao, ở đó nhiều trường học đã được xây cất, nhiều bệnh viện đã mọc lên, nhiều đường bay đã được thiết kế, đáng kể nhất là cải cách ruộng đất, và thành quả lớn lao nhất là xây dựng được quân đội VNCH hùng mạnh để bảo vệ đất nước trong cơn dầu sôi lửa bỏng, và một ý chí mãnh liệt để đứng lên chống trả những đe dọa. Tất cả những thành đạt đó trở thành những trở ngại làm cho CSBV không thể nào chiến thắng được MN.

Cái chết quá đau thương của TT Diệm, tạo nên một hình ảnh não nề đè nặng lên một đất nước có quá nhiều đổ vỡ và đau thương -- đó là điều mà đất nước của ông không vượt qua được. Ông Diệm là một nhà ái quốc, và tôi bảo đảm chắc chắn là ước mơ của ông là phục vụ cho người dân của ông, điều đó đã thể hiện suốt những năm dài kể từ khi biết ông, đó là làm sao đi đến thành công trong cuộc tranh đấu cho sự sống còn của đất nước Việt Nam để tiến tới những tiến bộ về phương diện chính trị, và tiến bộ xây dựng những giá trị chân thật cho con người.

Bi kịch đã diễn ra tại vùng nhiệt đới xanh tươi của Đông Nam Á, nhưng bi kịch làm cho con người xót xa thương cảm, và kinh hoàng như thời điểm của Bi Kịch Hy lạp thủa xưa. Đó là vóc dáng của một vị anh hùng dân tộc (national hero), người đã chiến đấu bền bỉ một cách hết sức dũng cảm để chống đỡ biết bao khó khăn, nghịch cảnh vây hãm lao lung tứ bề, cuối cùng đã phải gục chết thảm thiết trước số phận, số phận trong trường hợp này đến từ những kẻ thù công khai, những người bạn cũ của ông, và lỗi lầm của riêng ông. Khi ông nắm quyền hành quốc gia trong 9 năm trước đây, ông đã nói với đồngbào của ông rằng, “Hãy bước theo tôi nếu tôi tiến lên. Hãy giết tôi đi nếu tôi rút lui tháo chạy. Hãy trả thù cho tôi nếu tôi bị giết”.

Thủ phạm chính về cái chết của con người VNCH đầu tiên ấy chính là Hồ Chí Minh và đảng CSVN, còn lại tất cả, dù người Việt Nam hay Mỹ dính líu đến cái chết của TT Diệm, dù vô tình hay cố tình cũng đều là phương tiện hữu hiệu, là những con người tự nguyện để cho con sói già sỏ mũi dắt vào những âm mưu thần sầu quỉ khóc của họ Hồ ở Bắc Bộ Phủ. Con sói già quỉ quyệt này ném đá dấu tay tài tình tới mức độ dư luận nước Mỹ và Âu Châu tỏ ra rất kiêng nể ông ta, vì họ chỉ nhìn thấy chiếc mặt nạ mà không một ai biết bộ mặt thật của con sói già Hồ ly tinh này, nên chỉ chĩa mũi dùi phê phán tôn giáo này hay tôn giáo khác, phe này phe kia mà quên mất kẻ chủ mưu giết TT Diệm, một đối thủ hơn HCM tất cả mọi phương diện, tài năng cũng như đức độ, là người nếu còn sống thì ông ta và Đảng CSVN không bao giờ chiếm được được MN.

Con sói già này và Đảng CSVN tự biết không làm gì được TT Diệm và quân dân MN, nên đã mượn tay những con người ngây thơ nhẹ dạ, mù quáng thiển cận tiếp tay với ông ta, không phải chỉ giết một vị anh hùng dân tộc của VN mà giết cả một quốc gia, phá hủy tan tành Hòn Ngọc Viễn Đông, giết luôn nền Đệ I Cộng Hòa Việt Nam ổn định, lương thiện và trong sạch nhất vùng Á Châu như Giáo Sư Wesley Fishel đã nhận thấy.

Tội lỗi của con sói già này đúng là: Đẵn hết trúc Nam Sơn chẳng đủ để biên ghi tội ác. Múc cạn nước Đông Hải không đủ để rửa
sạch tanh nhơ (Nguyễn Trãi).

Tự nguyện tiếp tay và trở thành phương tiện hữu hiệu cho con sói già và CSVN âm mưu giết giết hại một con người VNCH của MNVN, những người Việt Nam và người Mỹ ngây thơ nhẹ dạ, mù quáng thiển cận trong Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã thuyết phục TT Kennedy cúp viện trợ và không ủng hộ TT Diệm nữa.

3- Ngược lại, Chủ Tịch Quốc Hội Hoa Kỳ là John MacComick và Dân Biểu Edna Kelly đã sáng suốt cảnh giác TT Kennedy rằng:

“Gần như không có ai ưu tư tới một điểm là, Ông Diệm và chính quyền MN đang phải đối đầu với rất nhiều trở ngại khó khăn, xứ sở quê hương của ông đang đổ vỡ tan hoang mọi bề, với sự tràn ngập của CS, băng đảng, và các giáo phái võ trang xung đột khắp nơi, TT Diệm không chỉ làm sao sống còn tồn tại được trong 9 năm, và đưa đến nhiều tiến bộ tốt đẹp trong việc tái lập lại trật tự quốc gia, bảo vệ quyền tự do cho dân, thi hành công lý xã hội để làm đời sống toàn dân tốt đẹp hơn.

Thế mà tại sao không thấy ai để tâm tới điểm là, không có ông Diệm không làm sao ổn định được Việt Nam và cả Đông Dương đang trong những cơn lốc và hỗn loạn tơi bời, rồi sau đó chỗ đứng của Hoa Kỳ trong chiến lược toàn cầu sẽ gãy đổ suy vong”.

Chính quyền Kennedy và những người trong Bộ Ngoại Giao Hoa kỳ đã bỏ ngoài tai những lời cảnh giác đầy tính cách tiên tri của Quốc Hội Hoa Kỳ về tương lai đen tối trong những chiến lược toàn cầu của Hoa Kỳ tại Á Châu, vì giết TT Diệm và mất MNVN vào tay CSVN cũng chính là tay sai của CS Hoa Lục.

Kennedy đã lầm lạc, gởi con gấu già lạnh lùng đầy nanh vuốt Henry Cabot Lodge đến quê hương đau khổ ngập tràn của VN để ủng hộ những tướng lãnh MN – là những con người đang ôm ấp giấc mơ tranh danh đoạt lợi, tranh bá đồ vương và tranh quyền cướp nước.

Thực ra mà nói, đây là những con người được coi là “đường đường một đấng”, có thể không thiếu cái “dũng khí” nhưng cũng chỉ sống bằng bản năng, không có tâm hồn và trí tuệ sâu sắc, nhất là thiếu đời sống tinh thần, nên về mặt tâm thức và ý thức rất non nớt, dễ bị mê hoặc, bị mời gọi lả lơi và quyến rũ mê hồn bởi giấc mơ quyền uy, quyền lực và quyền hành cũng như quyền lợi ích kỷ của riêng họ, nên chẳng bao giờ nhận ra là, tất cả những việc làm của họ để giết TT Diệm là tự nguyện để cho con sói già Bắc Bộ Phủ sỏ mũi dẫn dắt nhẹ nhàng vào những âm mưu cực kỳ thâm độc của hắn. Bởi vì những con người này, kể cả con gấu già lạnh lùng đầy nanh vuốt của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ cũng chẳng thoát được những tính toán của con sói già Bắc Bộ Phủ.

Con sói già Hồ ly tinh này không chỉ muốn giết một mình “con người VNCH đầu tiên” của MNVN, mà hắn muốn giết cả một quốc gia, giết luôn nền Đệ I Cộng Hòa Việt Nam và giết luôn hơn 10 triệu dân MN, giết luôn đời sống ấm êm của họ mà những
Con Người VNCH đã đổ bao nước mắt mồ hôi mới hoàn thành được cho toàn dân MNVN, để làm gì? hay chỉ để hoàn thành giấc mơ mù lòa và mê sảng XHCN của hắn?

Đó mới là mục tiêu tối hậu của con sói già. Trong khi tướng lãnh MN và Hoa Kỳ chỉ muốn hạ bệ TT Diệm để thay thế lãnh đạo MNVN bằng nhóm quân nhân hoàn toàn thiếu hiểu biết và kiến thức về chính trị trong hoàn cảnh lịch sử quá tăm tối của đất nước cũng như toàn bộ đời sống của toàn dân MN.

4- Sau khi các tướng lãnh lật đổ Tổng Thống hợp hiến hợp pháp, chính thống và được dân MN bầu lên nắm quyền hành chính quyền MN, Tướng Thomas Lane đưa ra nhận định:

“Tổng Thống Diệm bị người ta thay thế bằng những con người quá độc ác tàn bạo, là những người giống hệt Fidel Castro, không bao giờ ngập ngừng hành quyết các tù nhân”.

Tướng Thomas Lane đưa ra nhận xét về TT Diệm: “lịch sử cho thấy rằng TT Diệm đúng là một người quá nhân đạo và đầy lòng bác ái (humane and cheritable man) để sống còn trong bầu không khí của quyền lực vào 1963. Ông đã không có đủ tàn nhẫn và độc ác để bắt giam và xét xử những quân nhân tạo phản, và thay thế bằng những người trung thành của ông. Ông cố gắng quá nhiều và quá lâu để hòa hoãn với Phật giáo là những người không thề nào chịu hòa hoãn được (impossible conciliation). Ngay cả việc trục xuất những nhà báo Mỹ đã vo tròn bóp méo sự thật chính là kẻ thù quá cay đắng của ông.

Thay vì làm như thế, ông đã cố gắng hòa giải và giải tỏa những dị biệt mà không có những hành động cần thiết cho sự sống còn của chính quyền MN, chính sự khoan hòa đã khuyến khích sự nổi loạn… khi không quân nổi dậy ném bom Dinh Độc Lập đã xô đẩy tình thế vào cơn hỗn loạn thêm. Lẽ ra người phi công sẽ bị kết án và bị hành quyết. TT Diệm đã không bao giờ đem người phi công ra xét xử trước tòa án. Ông khước từ đòi mạng sống con người vì những lý do chính trị, dù đó là một cuộc nổi loạn.”

5- Giáo Sư Wesley Fishel:
Đứng đầu nhóm cố vấn đặc biệt gồm 54 Giáo Sư chính trị học và quản trị công quyền do Michigan State University (MSU) tổ chức với 200 người Việt Nam phụ tá để giúp MNVN xây nên nền Đệ I Cộng Hóa Việt Nam trong 9 năm (1954-1963) đã viết xuống như sau:

“Như sự kiện cho thấy, chỉ có một điều mà những học giả uyên thâm đều đã đồng ý khi nhìn vào năm đầu tiên nắm chính quyền của ông Diệm là chính quyền của ông sẽ tan rã bất cứ lúc nào, sự thất bại là điều không thể nào tránh được. Nhưng ngược lại, ngày nay ông Diệm vẫn còn hiện diện bên chúng ta, và chế độ của ông chắc chắn là một chế độ ổn định nhất và lương thiện trong sạch nhất vùng Á Châu.

Trước những thành quả vĩ đại đó, ông đã được nhiệt liệt hoan hô chúc tụng tại các quốc gia mà Ông đã viếng thăm như Washington, Manila, Tân Delhi, Rangoon, và Bankok, và chính quyền của ông đã được 45 quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc thừa nhận, chắc chắn ông phải là một con người phi thường, một con người đã bị ngộ nhận (misunderstood one) quá nhiều. (trích từ hồ sơ 20, trong cuốn Vietnam And America, the most comprehensive documented history of the Vietnam War).

6- Theo nhận xét của Philippe Deviller, một sử gia lỗi lạc đương thời, nhìn TT Diệm như sau:

“bước vào một hoàn cảnh cực kỳ đen tối, đó là một người Sĩ Phu, can đảm phi thường, và là con người của nguyên tắc vào tuổi 53. Ông là một người Quốc Gia được kính trọng nhất (the most respected man) và là người có ảnh hưởng lớn lao nhất và là một người sống trọn vẹn cho đức tin Công giáo... sự can đảm hiếm thấy nơi các lãnh tụ chính trị, rất coi trọng đạo đức gia đình, tính chịu đựng bền bỉ, đó là người không bao giờ thiếu sự chính trực
liêm chính. Ông không bao giờ không cư xử công bình với mọi người, kể cả cho kẻ thù của ông một cơ hội. Ông đã không bao giờ ra lệnh xử tử những người đã cố gắng giết ông”. Deviller nói thêm “Tất cả đối thủ lúc ban đầu của ông đều đánh giá ông rất thấp”.

7- Đại Sứ Hoa Kỳ là Frederick Nolting thì khuyên những người chống đối TT Diệm rằng,

“một sự thay đổi tuyệt vời sẽ thành đạt được cho đất nước này, nếu tất cả những ai chê bai chỉ trích chính quyền của họ, thì họ nên tìm cách cộng tác với chính quyền và làm việc ngay trong chính quyền để cải thiện và làm mọi việc tốt đẹp hơn”.

8- Vào này 15 tháng 10-1955, TNS Manfield thăm VNCH trong hai tháng đã có nhận xét về TT Diệm như sau:

“một thanh danh vang vọng khắp đất nước của ông, với đường lối quốc gia chân chính, và có những dự tính rất trong sáng. Nhưng đã có “những vận động lớn lao với âm mưu lật đổ” do những người bất hợp tác (none cooperation) và những kẻ phá hoại; tất cả chỉ muốn ngăn chặn ông Diệm thực thi những chương trình xây dựng của ông, gồm có cả việc nổi bật nhất là loại trừ những gì chỉ đã đưa đến những xấu xa tồi bại cho dân cho nước, và những bất công và bất bình đẳng trong xã hội Việt Nam.”

9- Một quan sát viên khác là Ralph Lee Smith thì cho rằng,

“Miền Nam Việt Nam thật may mắn đã sinh ra được một lãnh tụ quốc gia trong thời gian tranh đấu cho nền độc lập của đất nước. Ông đã phải đối đầu hứng chịu gần như tất cả khó khăn và nghịch cảnh.

Ông Diệm đã đóng trọn vẹn vai trò dù chưa sửa soạn một cách thật can đảm và sáng suốt, …một hình ảnh cao cả và khả
kính của một lãnh tụ quốc gia trong lòng những người dân bình thường (Common people).”

Smith còn cho biết thêm, còn có một quan sát viên khác thấy như sau:

“Chuyến đi thăm các vùng trồng lúa tại MN vào tháng 1-1955, ông Diệm tuần vừa qua đã đón nhận sự tán thưởng đầy nhiệt tình từ những người dân của ông. Lúa mọc tràn ngập trên các cánh đồng chung quanh ông, có tiếng gồng vang lên như reo vui, những người lính chiến thắng Việt Cộng đã ngồi ăn chung trên bàn ăn của ông; những người di cư tỵ nạn ngồi đâu lưng với nhau chung quanh ông trong căn nhà lá của họ”, và người quan sát viên đó kết luận, “sự kiện sống động này đã minh xác sức mạnh của ông Diệm nằm ngay chính sự lớn mạnh của những tâm hồn quốc gia dân tộc đang sống tại các làng xã, đó là những con người đã đau khổ quá nhiều vì chiến tranh do CS gây ra, những người dân này còn hơn cả những người ngồi uống rượu tại các nhà hàng Pháp tại Sàigon”.

10- Bên cạnh đó, Bernard Fall nhìn thấy nơi ông Diệm:

“Một con người đã nắm giữ một vai trò để giải quyết mọi vấn đề trước một tình thế quá đen tối, đó là TT Ngô Đình Diệm, một người theo tinh thần Kito giáo rất uyển chuyển, có một đức tin tôn giáo thật sâu xa, gánh trên đôi vai gánh nặng để dìu dắt che chở và nuôi sống 10.5 triệu con người tại MNVN, thêm vào đó phải lo cho gần 1 triệu người di cư từ Miền Bắc vào lánh nạn CS, bảo vệ nền độc lập và lo an toàn cho đất nước. Ngoài ông không có người nào tại Á Châu gặp nhiều khó khăn trở ngại như thế, phải gánh chịu một gánh nặng quá gian nan trên đường tiến tới Trật Tự Và Công Lý cho dân cho nước.”

11- Trong một chương sách của Joseph Buttinger, The Miracle of Việt Nam, có đoạn:

“sự chính trực vô tì vết (untained integrity) với thái độ quyết liệt chối từ sự thỏa hiệp với Pháp, và với sự hiểu biết sâu xa khi nhìn vào bản chất những kẻ thù của ông, trên chóp đỉnh của lòng dũng cảm ông đã cho cả kẻ thù và bạn bè ông nhìn thấy ông xây dựng nền độc lập cho VN và đoàn kết chính quyền làm sao cho thật vững mạnh, vì đó là điều đất nước của ông cần hơn thực phẩm và bom đạn.”

Buttinger còn nói thêm: “đó là một phần trong cái vĩ đại của một con người chính trị như ông Diệm”.

12- Có lẽ người hiểu tường tận về TT Diệm không ai hơn là người cầm đầu nhóm cố vấn trong cái “lõi” của chính quyền TT Diệm, Wesley Fishel có lần nói:

“Những kết tội chính quyền độc tài thiếu căn bản vững chắc (lack solid substance). Thực tế chính quyền Ngô Đình Diệm không thể nào nới tay khi những đe dọa quá ghê gớm khi nhìn chỗ nào cũng thấy tràn ngập khắp nơi. Nếu không có những đe dọa của CSBV người ta có thể nhìn thấy nhiều tự do hơn tại MNVN như chúng ta có tại Hoa Kỳ. Sự thật là phần lớn các giáo phái thù ghét ông, sự đố kỵ ghen ghét của người Pháp lúc nào cũng chờ đợi để tấn công ông tới tấp vào những điểm yếu của ông; thêm nữa là những người Mỹ đóng đô ngay tại Sàigon cũng chống ông Diệm.”

Fishel còn nói thêm:

“Tôi còn nhớ rất rõ khi viếng thăm VN vào 1958, đã có những viên chức ngoại giao HK có nhiều lần làm mất uy tín, thổi phồng sự thất bại, chế riễu tôn giáo của ông Diệm và gia đình ông, họ đã kêu gọi HK thay đổi chính sách tại VN. Ngay từ lúc ban đầu, các viên chức ngoại giao và báo chí háo hức đi tìm kiếm lỗi lầm của ông và của chính quyền của ông; không ai cần biết tới những hậu quả sắp tới là cái gì?”

13- Dưới mắt của Cựu Ngoại Trưởng Walter Roberton, ông Diệm là:

“Một con người tận tụy, dũng liệt và xoay trở thật tháo vát… trong ông, đất nước ông đã tìm được một lãnh tụ thật xứng đáng với sự chính trực liêm khiết của ông được gần như toàn dân MNVN thừa nhận.

Vùng Đông Nam Á đã đưa đến cho chúng ta một TT Diệm với đức tính vĩ đại, và toàn thể thế giới tự do sẽ trở nên phồn vinh thịnh vượng hơn, khi học từ bài học quyết tâm và sức chịu đựng kiên cường của một người như ông Diệm.”

14- Vào năm 1959, R. G. Casey Bộ Trưởng Úc đã viết rằng,

“Những người Mỹ đã lấy những tiêu chuẩn của HK để phê phán là bất công.
Có hai sự kiện cần phải nhớ bất cứ khi nào muốn chỉ trích chính quyền VN. Thứ nhất, Việt Nam Là Tiền Đồn Của Chiến Tranh Lạnh. Chính quyền MN không thể bỏ ngỏ tênh hênh mọi thứ, vì tạo cho những kẻ thù khai thác trục lợi. Đó Là Điều Sẽ Trở Thành Nguy Hiểm, Chết Người , Không Chỉ Cho VN, Mà Sẽ Phá Sụp Đổ Những Quyền Lợi Chiến Lược Của Thế Giới Tự Do Tại Vùng Đông Nam Á.

Thứ hai, thực thi dân chủ trên một quốc gia với những quan niệm hoàn toàn mới lạ tại đất nước VN, dân chủ cần có thời gian để xây dựng các cơ cấu, những truyền thống dân chủ và các tập quán dân chủ cần phải được phát triển từ từ mới có thể ứng dụng những quyền dân chủ, ý thức chính trị dân chủ trong đời sống của dân, mà cần thời gian từ từ từng bước một để nó ăn sâu và lan rộng trong dân chúng.

Hoa Kỳ không có đủ lý do chính đáng, chỉ vì một ngày không được vui mà lìa bỏ xa lánh một người như ông Diệm là điều không bao giờ có thể chấp nhận được… trong một quốc gia mà 90% là người thất học, ông Diệm làm được như thế là Một Phép Lạ Rồi”.

15- Khi Phó Tổng Thống Lyndon Johnson đến MNVN để điều tra và duyệt xét lại tình hình VN trong giai đoạn tăm tối nhất, ông nhận thấy TT Diệm đúng là đã tạo được một phép lạ chính trị tại MNVN.

Gần 1 triệu dân di cư Miền Bắc lánh nạn CS đã được giải quyết vô cùng tốt đẹp, đường xá phát triển khắp nơi. Đặc biệt về canh nông đã thành công lớn. PTT Johnson kết luận: “Ngô Đình Diệm Là Winston Churchill Của Á Châu”.

16- Trong lúc đó, TNS Mike Manfiel tuyên bố tại Hoa Kỳ về TT Diệm: “Vị Cứu Tinh Của Tất Cả Vùng Đông Nam Á” (the savior of all Southeast Asia).

17- Bên cạnh nhận định của Mike Manfiel là
nhận định của TNS Jacob Javits về TT Diệm:

“Thực Sự Là Một Trong Những Vị Anh Hùng Của Thế Giới Tự Do” (One of the real heroes of the free world). (trích từ Congresstional record,
ngày May 13-1957).

18- Theo nhận định của tờ New York Times, ngày 13 tháng 6-1961:

“TT Diệm đã tái tổ chức lại chính quyền, ông chú tâm vào quyền hành pháp trong các bộ… những thay đổi này hứa hẹn guồng máy công quyền sẽ vận hành tốt đẹp hơn và hiệu quả hơn”.

19- Trong lúc tờ báo Time cho rằng:

“Một ông Diệm đã bị hành hạ tơi bời mà ông vẫn tổ chức bầu cử rất hợp lý và lương thiện… và chiến thắng oanh liệt trong các cuộc bầu cử.” Tờ Time đưa ra giải thích: “ông đã được 88% phiếu của dân dồn cho ông, vì sự thật là đất nước VN phồn vinh thịnh vượng.”

Ngoài ra tờ Time còn viết thêm:

“Đây là cuộc chiến thắng gấp đôi (double victory) trước những đối thủ cộng sản và những người đối lập không CS. Kết quả rực rỡ đến từ “những chương trình cải cách”. Kết quả hiển nhiên đó xác minh rằng, MNVN “Đã Nghiền Nát Uy Danh Của Cách Mạng Cộng Sản”, và xã hội Việt Nam đã có được một lãnh tụ có ý chí thật mãnh liệt”(Strong will leader).

Chính quyền Ngô Đình Diệm đã thực hành những chương trình cải cách nhờ những thúc đẩy và trợ giúp bởi những người Mỹ, đứng đầu là Tiến Sĩ Eugene Stanley, cải cách việc huấn luyện các viên chức chính quyền địa phương làm sao cho họ hợp nhất với chính quyền trung ương.

20- Vào ngày 15 tháng 2-1962, Đại Sứ HK Nolting đã tuyên bố:

“Chính quyền Việt Nam dưới sự hy sinh và can đảm phi thường trong vai trò lãnh đạo của ông Diệm, đã cố gắng vượt bực dưới những hoàn cảnh cực kỳ khó khăn và đã tạo được những tiến bộ chính trị, xã hội, kinh tế cho toàn dân, với sự trợ giúp của HK”. Cũng theo Đại Sứ Nolting cho biết, chính quyền MNVN là: “một chế độ hợp hiến do dân bầu lên (Elected and constitutional regime). Vào tháng 12-1962 chính quyền TT Diệm đã công bố rằng: đã có 4,077 chương trình xây dựng các ấp chiến lược, trên tổng số 11,182 chương trình đã được hoàn tất với 39% dân chúng MN đã sống trong các cộng đồng này”.
14 -10 - 2015
Nguyễn Anh Tuấn 
Political Scientist


Wednesday, April 20, 2016

Hồ sơ mật dinh Độc Lập



H sơ mt dinh Đc Lp

Trích từ NĐ Tựu's email & Tác giả : Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng

Nhân dịp kỷ niệm ngày quốc hận 30-4-1975 sắp đến. tôi nhớ lại đã viết trong bài Thiếu Sinh Quân lừng danh quân sử :

Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng trong buổi họp báo quốc tế ở Hoa Thịnh Đốn đã thẳng thừng tố cáo làm Nixon và Kissinger nhục nhã vô cùng. Khiến Tổng Thống Ford phải chấp nhận cho gia tăng người Việt Nam được tị nạn ở Hoa Kỳ tới 200,000 người trong khi tên khốn nạn Kissinger chỉ  muốn 50,000 và hắn đã từng nguyền rủa sao tụi VNCH không chết hết đi cho sớm !!!

Đó là công lao vô cùng to lớn của Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng đã giúp cho Cộng Đồng người Việt Hải Ngoại được to lớn như ngày nay. Chúng tôi vinh danh và tạ ơn Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng.

Không có gì quí giá và chính xác cho bằng chúng ta nên nghe lại một tường trình lịch sử "Hồ sơ mật dinh Dộc Lập" để biết rõ ràng những âm mưu giết chết Việt Nam Cộng Hòa của Kissinger và  Nixon.

Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu sau khi giúp Nixon đắc cử năm 1968 lại bị Nixon & Kissinger phản phé, coi thường, lừa dối liên tục cho đến khi mất nước 1975.



Vào nghe tại    > > >       Hồ sơ mật dinh Độc Lập

Saturday, December 19, 2015

Một Cơn Gió Bụi


Một Cơn Gió Bụi

20 Dec 2015
Hà Xuân Thụ

Hồi ký lịch sử Một Cơn Gió Bụi của Trần Trọng Kim, vị Thủ Tướng Việt Nam đầu tiên dưới thời vua Bảo Đại đã vạch rõ những tàn ác ô cùng của Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản đã lừa dối dân chúng, giết hại nhiều người ái quốc tranh đấu cho nước VN độc lập.

Hồi ký vạch rõ những bỉ ổi lừa lọc của Pháp không bao giở muốn trả lại tự do độc lập cho Việt Nam sau khi Nhật Bản đầu hàng vô điều kiện, Pháp trở lại chia ViêtNam làm hai: miền Nam bị bảo hộ còn miền Bắc Pháp buộc Việt Cộng trao nộp vũ khí để mong lập chính phủ liên hiệp.

Thật đáng tiếc các học giả bấy giờ chưa hiểu biết đích thực được giá trị vô cùng quốc gia tự do độc lập của cụ Trần Trọng Kim để cùng nhau phổ biến rộng rãi đến quần chúng.

Hồi ký Một Cơn Gió Bụi của cụ Trần Trọng Kim giờ phổ thành truyện đọc 3 tập để nghe biết về lịch sử Việt Nam thật giá tr:




Nghe tiếp:

Một Cơn Gió Bụi #2 - Hồi Ký của Trần Trọng Kim 
Một Cơn Gió Bụi #3 - Hồi Ký của Trần Trọng Kim 

Thursday, December 10, 2015

Dù xây chín bậc phù đồ

Dù xây chín bậc phù đồ

10 Dec 2015

Chúng ta càng già càng trở nên lạnh lùng và thản nhiên với những đau khổ cực cùng của dân chúng Việt Nam.

Trong dịp viếng thăm cộng đồng công giáo VN ở San Jose vào cuối tháng Năm 2015, LM Nguyễn Văn Khải đã hết lời ca tụng câu nói công đức giúp người còn giá trị hơn công đức tu thành Phật:

Dù xây chín bậc phù đồ
Không bằng làm phước cứu cho một người

Blog của tôi rất hoan nghênh những lời cổ động giúp người Việt Nam của LM Khải nên đã đăng nhiều bài viết như thế. Điển  hình là một đoạn hay nhớ đời của Démosthène  trích trong  bài viết: Ngậm sỏi để tập hùng biện

Một dân tộc thờ ơ với chính trị, ông nói, là con mồi ngon của tham vọng đế quốc. Một người không biết bảo vệ của cải của mình thì không xứng đáng được giữ của trong tay.

Và xem video LM Nguyễn Văn Khải tại: 

Sunday, November 1, 2015

Những người vĩ đại với VNCH

Nhng người vĩ đi vi VNCH

Chúng ta hãy đi xem cuốn phim Vietnamerica (Việt Mỹ) để biết về một thuyền nhân duy nhất sống sót, ông Nguyễn Tiến Hóa, còn 74 người khác trên tàu đã bị hải tặc Thái Lan cướp bóc, hãm hiếp, giết chết hết năm 1982. 

Và câu chuyện dưới đây cho chúng ta biết rõ thêm những người có ơn vĩ đại với Việt Nam Cộng Hòa. Xin trân trọng ghi ơn.

Tôi đi xem phim VIETNAMERICA
và chuyn ba bà “làm tht

Tác gi: Sơn Tùng

Sau khi chiếu ra mắt ở vài nơi, phim VIETNAMERICA đã được giới thiệu với khán giả Vùng Hoa-Thịnh-Đốn vào hai ngày 17 (thứ bảy) và 18 (chủ nhật) tháng 10, 2015 mà kết quả sơ khởi được Bà Nancy Bui, tức Ký‎ giả Triều Giang, nhà sản xuất phim, Hội trưởng Hội Bảo Tồn Lịch sử Văn hóa Người Mỹ gốc Việt (Vietnamese American Heritage Foundation, VAHF) cho biết là tốt đẹp, về tinh thần cũng như tài chánh.

Hiển nhiên, đây là thành quả của những nỗ lực của nhiều người trong nhiều tháng, từ việc làm phim đến việc đem phim đi chiếu. VAHF đã liên tiếp phổ biến những tin tức về cuốn phim này. Vì vậy, nhiều hay ít, mọi người đã biết đây là một cuốn phim tài liệu về thảm kịch thuyền nhân diễn ra với hàng triệu người ồ ạt ra khơi trên những con tàu nhỏ bé sau khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt với cái chết của tự do tại miền Nam Việt Nam vào tháng 4 năm 1975.

Những cuộc vượt biển đầy hiểm nguy với bão tố và hải tặc – lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam – đã kéo dài trong nhiều năm và hàng trăm ngàn người đã không bao giờ trở lại mặt đất.

Đây là một bi kịch lớn không chỉ với dân tộc Việt Nam mà còn của cả nhân loại nhưng chưa bao giờ được đưa lên màn ảnh, dù Hollywood đã thực hiện nhiều phim về chiến tranh Việt Nam với những câu chuyện bịa đặt và tình tiết ly kỳ giả tưởng.

VIETNAMERICA (Việt Mỹ) là cuốn phim tài liệu đầu tiên về thuyền nhân, và không do Hollyhood sản xuất. Khi được Bà Triều Giang cho biết đã làm xong cuốn phim vào tháng 5 năm nay, đã gửi đi tham dự vài hội liên hoan phim ảnh quốc gia Hoa Kỳ và quốc tế và đã được vài giải thưởng, tôi đã kinh ngạc và thán phục. Mới trước đó đôi tuần, gặp Nhà văn Uyên Thao, trong lúc nói chuyện với nhau về sinh hoạt văn học, văn nghệ ở hải ngoại, anh bày tỏ mơ ước làm được một cuốn phim về người vượt biển.

Tôi chỉ biết Bà Triều Giang viết báo và làm hội trưởng Hội VAHF chứ chưa bao giờ nghe chuyện làm phim! Về sau được biết thêm một phần trích từ cuốn phim dài 18 phút mang tên MASTER HOA’S REQUIEM đã đoạt giải Special Jury Remi Award, The Best Texas Production của WorldFest ở Houston, Texas, và The Best Production của Dallas International Film Festival.

Master Hoa’s Requiem là câu chuyện có thật về cuộc vượt biển của ông Nguyễn Tiến Hóa cùng với vợ con trong chuyến tàu gồm 75 người mà cuối cùng chỉ còn mình ông ta sống sót tới được Đảo Bidong, Malaysia. Câu chuyện này là phần chính của VIETNAMERICA dài 90 phút chiếu.

Tình cờ, nhân vật Nguyễn Tiến Hóa lại không phải là người xa lạ với tôi. Tháng 5 năm 1982, tôi tới Trại Bidong thì ông ta đã ở đó được vài tháng. Chiều chiều ông ta thường ngồi hướng nhìn ra biển khơi nhấp nhô những đợt sóng, kể cho những người vây quanh về chuyến đi thảm khốc của ông khi gặp hai chiếc tàu hải tặc. Tiền của bị cướp, phụ nữ bị hãm hiếp, kể cả vợ ông. Ông ta đã nổi điên và khi chiếc tàu thứ hai kéo đến, ông ta đã đánh hạ mười mấy tên hải tặc Thái Lan trước khi rơi xuống biển. Nghe nói Nguyễn Tiến Hóa là võ sư VOVINAM và là trung úy huấn luyện viên võ thuật trong quân đội VNCH. Hình như khi ấy ông ta đang chờ ở Bidong để ra tòa tại Thái Lan với tư cách nhân chứng trong vụ án do Cao Úy Tị Nạn LHQ khởi tố nhờ những hình ảnh do một thương thuyền Nhật Bản chụp được. Vụ kiện về sau không thành vì vấn đề an ninh của ông Hóa.

Nay, gần 35 năm sau, Nguyễn Tiến Hóa, với mái tóc bạc trên đầu, tự đóng vai chính mình để làm một cuộc hành trình ngược trở lại Mã Lai đi tìm mộ vợ con nơi những nghĩa trang hoang phế chôn những xác thuyền nhân vớt được trên biển hay sóng đánh vào bờ. Họ đã tới bến nhưng không còn sống để hít thở bầu không khí tự do.

Ngoài câu chuyện của ông Nguyễn Tiến Hóa còn vài trường hợp của những người khác, như Lương Xuân Việt, như Dương Nguyệt Ánh, như Trần Tử Thanh… Họ đã ra đi bằng những cách khác nhau, nhưng vì cùng một l‎ý do: họ không thể sống dưới chế độ cộng sản. Họ đã may mắn đến được bến bờ tự do và nước Mỹ đã cho họ một quê hương mới. Với quyết tâm và bền chí, họ đã hội nhập thành công. Nguyễn Tiến Hóa, tuy vẫn chưa xóa hết được ác mộng trong những giấc ngủ, đã làm lại cuộc đời, hiện làm chủ một võ đường ở Texas và dạy Tai Chi cho những người lớn tuổi gồm đủ mọi sắc dân trong cộng đồng địa phương. Lương Xuân Việt theo cha mẹ rời khỏi Việt Nam năm 1975 lúc lên mười, nay là một vị tướng trong Quân đội Hoa Kỳ, Dương Nguyệt Ánh trở thành một nhà chế tạo bom...

Rất nhiều con em người Việt tị nạn, thế hệ thứ hai, những công dân Mỹ gốc Việt, đã không biết và tự hỏi vì sao họ có mặt trên đất nước này và cha mẹ họ đã đến đây bằng cách nào, đã làm sao để vươn lên trên quê hương mới.   

VIETNAMERICA đã cho họ câu trả lời. Cuốn phim đã được chiếu ở vài nơi và đã tạo  nhiều tiếng vang, nhưng lần ra mắt tại Washington đã có một ý nghĩa đặc biệt. Không phải vì đây là thủ đô nước Mỹ, nhưng vì ngoài hai xuất chiếu ở một rạp tại Virginia phim còn được chiếu tại Newseum tức viện bảo tàng truyền thông của nước Mỹ, một cơ sở đồ sộ hiện đại tại trung tâm thủ đô Hoa Kỳ, nơi lưu trữ mọi tài liệu, dữ kiện liên quan đến những gì đã xảy ra trên mặt đất được tường trình qua báo chí, truyền thanh, truyền hình, mạng điện tử... 

Dĩ nhiên trong đó có Chiến tranh Việt Nam mà truyền thông Mỹ đã bị kết tội là thiên lệch và đóng vai trò quan trọng đưa đến kết thúc bi thảm ngày 30.4.1975.

Tối 17 tháng 10, tôi đã tới Newseum không phải chỉ để xem VIETNAMNERICA mà còn để nói với truyền thông  Mỹ rằng SỰ THẬT rồi cũng có lúc phải lên tiếng. Và đã lên tiếng ngay tại nơi cần lên tiếng. Ban quản trị Newseum đã tỏ ra công bằng khi cho trình chiếu VIETNAMERICA tại đây và cùng thời gian còn mở cuộc triển lãm hình ảnh về Chiến tranh Việt Nam qua truyền thông Mỹ, những hình ảnh cho thấy sức mạnh của báo chí Mỹ và vì sao Mỹ đã thất bại tại Việt Nam và làm cách nào báo chí Mỹ đã đồng lõa với tội ác của cộng sản tại Việt Nam.

Tôi đã vui mừng khi thấy người Việt tới tham dự đông đảo. Những ngày trước buổi chiếu phim tôi đã lo ngại sẽ có ít người tới vì giá vé 100 và 200 Mỹ-kim, vì khó khăn di chuyển và chỗ đậu xe tại Washington và vì thói quen thờ ơ của đa số người Việt.

Dường như “chúng ta” chỉ thích làm những gì có lợi cho bản thân mình, ít khi chịu làm cái gì cho lợi ích cộng đồng hay xã hội. Nếu có làm thì chỉ thích “làm chơi”, làm những cái dễ làm và nhường cái khó làm cho người khác.

Bà Triều Giang và Hội VAHF đã chọn cái khó để làm và đã “làm thật”. Mấy năm trước VAHF đã hoàn thành chương trình phỏng vấn 500 người Việt tị nạn tiêu biểu tại Mỹ để đưa vào một số trường đại học nhằm mục đích sửa lại phần nào những sai lầm và thiên lệch trong sách báo và giảng dạy do phe tả đưa ra. Nay, VAHF với tay không lại làm một cuốn phim tài liệu về thuyền nhân và về người Mỹ gốc Việt trong khi có nhiều tổ chức mang những danh xưng to lớn không làm, hay không làm được.

Khi Bà Triều Giang tới Vùng Hoa-Thịnh-Đốn, tôi đã gặp riêng bà hai lần và được nghe bà than phiền về một vài nhân sự trong vùng, nhưng cũng do đó được biết những khích lệ và trợ giúp đáng quý‎ mà VAHF đã nhận được khi đem phim tới đây chiếu ra mắt, trong đó bà đặc biệt nhắc đến ba người con của “anh em HO” đã giúp cho Hội mỗi người mười ngàn Mỹ Kim, cộng với sự yểm trợ của nhiều người khác cùng tiền bán vé trong các lần chiếu ra mắt, VAHF chỉ còn nợ 70 ngàn Mỹ-kim trong tổng kinh phí  350 ngàn Mỹ-kim thực hiện cuốn VIETNAMERICA.

350 ngàn Mỹ-kim để làm một cuốn phim 90 phút chiếu! Không ai có quyền đem so sánh VIETNAMERICA với các phim do Hollywood thực hiện với phí tổn hàng chục triệu đô-la!

Biết như thế sẽ hiểu được sự hy sinh, lòng can đảm và quyết tâm “làm thật” của những người đã góp công sức vào việc thực hiện cuốn phim này mà đứng đầu là nhà sản xuất Triều Giang. Và cuốn phim cũng không thể thực hiện được nếu không có tiền, trong đó sự đóng góp phóng khoáng của “ba người con HO” rất quan trọng và rất có ý nghĩa.

Sự đóng góp của ba người trẻ ấy, ba chủ nhân của các công ty V247, AB Realty Mortgage và Luraco Technologies, đã giúp cho VAHF đỡ được một gánh nặng về tài chánh, mặt khác đã cho thấy tính cách quan trọng và chính đáng của chương trình tái định cư cựu tù nhân chính trị Việt Nam thường được gọi một cách ngộ nhận là “chương trình H.O.” vào đầu thập niên 1990 với khoảng 300 ngàn người vừa cựu tù cải tạo và gia đình họ. 

Nay, sau 25 năm, nghĩa cử của ba người trẻ chủ nhân của ba công ty đã nói rất nhiều về sự thành công của thế hệ thứ hai của “HO” trên nước Mỹ và về sự trả ơn của họ cho quê hương mới cũng như đóng góp vào cuộc chiến đấu cho tự do tại Việt Nam của thế hệ đi trước vẫn còn tiếp tục trên một mặt trận khác. Ba người này đã có mặt tại buổi chiếu phim ở Newseum và đã được mời phát biểu.

Cũng có mặt trong buổi chiếu phim đặc biệt này là Bà Khúc Minh Thơ, nguyên chủ tịch Hội Gia đình Tù nhân Chính trị Việt Nam, người được nhiều cựu tù cải tạo coi như ân nhân của họ. Danh nghĩa ấy không sai, nếu biết được những gì Bà Khúc Minh Thơ và Hội GĐTNCTVN đã làm trong hơn hai mươi năm để vận động cho tù nhân chính trị tại Việt Nam được trả tự do và được tái định cư tại Hoa Kỳ. 

Chỉ hai năm sau khi cựu quân, cán, chánh VNCH bị lùa vào các nhà tù được gọi là “trại cải tạo”,  và thế giới bên ngoài không ai muốn nghe chuyện Việt Nam nữa, Hội GĐTNCTVN đã được thành lập tại Washington và đi gõ cửa Quốc Hội Mỹ, gõ cửa Bộ Ngoại giao, gõ cửa cả Tòa Bạch Ốc và đại diện (chưa có đại sứ) Cộng sản Hà-nội tại Liên Hiệp Quốc và qua làn sóng đài VOA nhắn về Việt Nam “Chúng tôi KHÔNG QUÊN CÁC ANH”.

Khi ấy, nằm mơ cũng không mấy ai nghĩ rằng có ngày tù cải tạo sẽ được trả tự do và đi Mỹ. Nhưng Bà Khúc Minh Thơ “không quên các anh” và tiếp tục “níu áo” các dân biểu, nghị sĩ  Mỹ, đặc biệt là Bob Dole, Ted Kennedy và John McCain…Tôi đã gặp Bà Khúc Minh Thơ lần đầu tại một trong những buổi tiếp tân được Hội GĐTNCTVN tổ chức tại trụ sở Quốc Hội Hoa Kỳ để vận động cứu tù nhân chính trị Việt Nam mà kết quả đã thấy “ánh sáng ở cuối đường hầm”.

Giữa thập niên 1980, Tổng thống Ronald Reagan ký sắc lệnh chỉ định ông Robert Funseth, Phụ tá Thứ trưởng Ngoại giao, đặc trách thương thảo với Hà-nội về vấn đề tù nhân chính trị Việt Nam. Sau đó TT Reagan tiếp Bà Khúc Minh Thơ tại Văn phòng Bầu dục Tòa Bạch ốc và cam kết không quên những chiến sĩ Việt Nam anh hùng khiến Bà Thơ bật khóc trước mặt TT Mỹ.

Tin đồn về tới Việt Nam, hồ sơ cựu tù cải tạo gửi sang Hội GĐTNCTVN không còn chỗ chứa dưới căn hầm nhà Bà Khúc Minh Thơ và chuông điện thoại reo ngày đêm. Khi ấy chưa có Internet, chưa có cả máy FAX. Hội GĐTNCTVN không có quỹ và không xin tiền đồng hương. Bà Khúc Minh Thơ đã phải dùng tiền lương công chức khiêm tốn của mình để trả tiền điện thoại viễn liên, bưu phí gửi tài liệu đi VN và thuê người làm hồ sơ chuyển sang Bộ Ngoại Giao.

Ngày 30.7.1989 ông Funseth ký với Hà-nội thỏa hiệp về việc ra đi của cựu tù cải tạo Việt Nam, mở đầu cho chương trình “H.O.” Có lẽ không ai vui hơn Bà Khúc Minh Thơ dù đã suýt mất nhà vì thiếu tiền trả ngân hàng. Nay, sau 25 năm, ông Funseth vừa qua đời mấy tuần trước. Một thế hệ khác đã trưởng thành trong “đại gia đình HO”. Sức khỏe Bà Khúc Minh Thơ cũng đã suy yếu nhiều và bà có một ước mơ cuối đời: thế hệ thứ hai sẽ cùng nhau dựng một tượng đài cám ơn nước Mỹ.

Từ câu chuyện Bà Khúc Minh Thơ “làm thật”, vì hết lòng với việc làm nhân đạo mà suý‎t mất nhà, tôi không thể không nói tới một phụ nữ khác cũng vì đã “làm thật”, tận tụy với một lý tưởng cao đẹp mà đã mất nhà: Irina Zisman.

Bà Irina là một ký giả người Nga thông thạo tiếng Việt, nhân viên ban Việt ngữ tại Đài Phát thanh Mạc-tư-khoa thời cs Nga. Năm 1992, chỉ một năm sau khi Nga sụp đổ, bà đã lập ra “Radio Irina”, hay “Tiếng nói Tự do từ Mạc-tư-khoa”, để hướng về Việt Nam cổ vũ cho nhân quyền, dân chủ với những tin tức xác thực và bình luận sắc bén, phát đi từ cái nôi của “cách mạng vô sản”. 

Không có tiền, bà xin nhà thờ và vài tờ báo ở Mạc-tư-khoa trợ giúp. Không bao lâu sau, một tổ chức chính trị của người Việt tị nạn tại Mỹ nhập cuộc, hứa bảo trợ Đài và đưa Irina tới nhiều cộng đồng người Việt ở Mỹ, Canada và Âu Châu để vận động gây quỹ. “Cuộc hôn nhân” không kéo dài lâu vì Irina cảm thấy bị mất độc lập và không còn nhận được tiền nuôi Đài (mỗi tháng khoảng 5 ngàn Mỹ-kim).

Một nhóm bạn ở Washington được thành lập để vận động quyên tiền nuôi Đài vì nghĩ rằng chỉ cần 5 hay 6 ngàn người trong số khoảng hai triệu người Việt ở hải ngoại khi ấy bỏ ra mỗi tháng “một Mỹ-kim” là đủ để duy trì tiếng nói đấu tranh quan trọng này. Bà Irina cũng tin tưởng như thế, và trong khi chờ đợi tiền từ Mỹ, bà đã phải vay tiền của bọn “xã hội đen” để duy trì Đài. Nhưng rồi tiền từ “hai triệu người Việt ở hải  ngoại” không bao giờ đến, ngoài đóng góp của vài cá nhân không đủ nuôi Đài và trả nợ.

Trong khi đó vì ảnh hưởng nguy hiểm của “Radio Irina” tại Việt Nam, Cộng sản Hà-nội đã làm áp lực mạnh với chính quyền mới tại Nga để đóng cửa đài phát thanh này. “Radio Irina” tắt tiếng và Irina bị bọn chủ nợ “xã hội đen” đòi tiền và hăm dọa bắt cóc con gái. Irina phải bán căn chung cư ở trung tâm Mạc-tư-khoa và dọn đi vào ban đêm tới một căn nhà nhỏ ở ngoại ô.

Nay, hơn 20 năm sau, tôi là một trong vài người Việt ở hải ngoại còn liên lạc với Irina. Mỗi khi nhìn vào đôi mắt xanh biếc như bầu trời mùa hè không mây của Irina, tôi thường tự hỏi cái gì đã khiến người phụ nữ “dị chủng” này yêu Việt Nam hơn nhiều người Việt?

Một mình Irina Zisman đã làm được cái mà mấy triệu người Việt ở hải ngoại không làm được. Cũng như  Bà Khúc Minh Thơ và Triều Giang, đã làm được những điều mà người khác không làm được. Chỉ vì họ “làm thật”.

Sơn Tùng
Virginia, Tháng mười 2015




Monday, March 16, 2015

Trung Tướng Đồng Văn Khuyên

Trung Tướng Đồng Văn Khuyên

Giao Chỉ, San Jose

Người nuôi quân

Chiến tranh Việt Nam thực sự khốc liệt nhất trong 10 năm cuối cùng từ 1965 đến 1975. Trong suốt thời gian khói lửa trên toàn thể miềnNam, mọi quyết định hành quân quan trọng nằm trong tay các tư lệnh quân đoàn kiêm tư lệnh Vùng theo chỉ thị trực tiếp từ tổng thống.

Chức vụ tổng tham mưu trưởng bộ TTM và tổng trưởng quốc phòng đã bị lu mờ vì những lý do chính trị. Tuy nhiên bộ quốc phòng và bộ tổng tham mưu vẫn nỗ lực làm tròn bổn phận về quản trị hành chánh, tài chánh, huấn luyện, tiếp vận, chiến tranh chính trị và nhân lực. Không có các chức quyền khả năng điều hợp tại hậu phương, tiền tuyến không thể đứng vững.

Suốt 10 năm chinh chiến,  đã có trên 10 vị trung tướng tư lệnh quân đoàn thay nhau chỉ huy các Vùng chiến thuật. Các vị tư lệnh nổi danh một thời, tên tuổi lừng lẫy trên các chiến trường và trên những trang báo Sài Gòn. Nhưng rất ít người biết đến một vị trung tướng, trong suốt 10 năm đóng vài trò hết sức quan trọng trong công tác nuôi đạo quân một triệu lính. Đó là trung tướng Đồng Văn Khuyên.

Ông là người giới quân sự Mỹ tin tưởng nhất, tôn trọng nhất và Ngũ giác đài Hoa Kỳ đã có lúc gián tiếp cho rằng không ai thay thế được. Khi thảo luận về các chức vụ tại tổng tham mưu, trung tướng Trần Văn Đôn, vị bộ trưởng quốc phòng cuối cùng cũng nói rằng việc này phải giao cho ông.

Vào những ngày cuối, đại tướng Cao Văn Viên, tổng tham mưu trưởng ra đi đã để lại giấy ủy nhiệm chức vụ cho ông. Tướng Nguyễn Cao Kỳ, sáng 29 tháng tư, sau khi bay một vòng trên không phận Sài Gòn, đáp xuống bộ tổng tham mưu ghé vào hỏi thăm, vị trung tướng còn ngồi lại cho biết tình hình tuyệt vọng. Ông Kỳ bỏ ý định bay xuống miền Tây. Trực thăng của ông bay thẳng ra biển Đông.

Vị trung tướng cuối cùng của VNCH mà người Mỹ đợi chờ dục dã hãy mau ra đi nhưng vẫn còn ngồi lại mà trong lòng như lửa đốt. Ông lên xe chạy qua văn phòng tùy viên Mỹ trong Tân sơn Nhất. Rồi ông lại trở về. Hai giờ chiều 29 ông đi một vòng bộ tổng tham mưu rồi lại qua bên Tân sơn nhất. Ông ở đó để được Hoa Kỳ bốc đi vào buổi tối. Đó là trung tướng Đồng Văn Khuyên, vị Nội Tướng của QLVNCH. Người trách nhiệm nuôi một triệu lính trong 10 năm cuối của miền Nam. Và bài này tôi viết cho ông.

Gia đình tiếp vận

Trong gia đình, để ca ngợi người vợ hiền quán xuyến, thiên hạ gọi bà là nội tướng. Khi đề cập đến vị trung tướng tổng tham mưu trưởng cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa, nếu gọi ông là nội tướng ắt có sự hiểu lầm, sẽ chê bai đây là chức vụ tầm thường trong bếp.

Không. Ủy Ban Path Finder của chúng tôi gồm các sĩ quan Mỹ Việt chuyên về biên khảo và phân tích đã có 1 thời đồng ý rằng các trung tướng tư lệnh vùng trước sau cả chục ông nhưng con người chỉ huy toàn bộ guồng máy tiếp vận suốt 10 năm chinh chiến chỉ có một trung tướng duy nhất là Đồng Văn Khuyên sinh năm 1925 tại Gò Công.

Đại tá Thịnh từ Was. DC mới điện thoại cho tôi nói là ông xếp 86 tuổi của chúng tôi đã nhập viện. Tinh thần không còn minh mẫn, thể chất đã quá yếu. Chẳng biết ra đi lúc nào. Thuộc cấp gần với ông Khuyên còn lại cũng chả được mấy người. Anh thì 3 chân 4 cẳng, anh thì xe lăn. Anh thì lặn kỹ khắp bốn phương trời. Nào biết chăng còn bao nhiêu hơi sức để về thắp nén hương cho người chỉ huy gốc nông dân miền Hậu Giang.

Tôi với ông sinh ra ở 2 miền đất nước. Người ta là công tử xứ Thăng Long ngàn năm văn vật, quê tôi ở chỗ Nam Định quê mùa. Các bác là anh chị từ Bạc Liêu qua Cần Thơ lên đến Saigon. Ông Khuyên là dân Gò Công tỉnh lẻ nằm ngoài lề con đường cái quan.

Mười năm đầu của trường đời trong quân ngũ, tôi còn lang thang đây đó. Mười năm sau của cuộc binh đao, tôi có duyên gặp ông, làm việc với ông, hiểu rõ cuộc đời, cá tính và hoàn cảnh của ông xếp. Bài viết cho ông mà giãi bầy cả cuộc đời mình, xin phân trần 1 lần cho cả toàn quân dù nay đã rã ngũ.. Trong suốt 21 năm ở lính, chúng tôi trải qua nhiều giai đoạn, biết  được bao nhiêu là các cấp chỉ huy. 

Bắt đầu là đại tá sau lên trung tướng Dương Văn Đức. Từ lúc ông hét ra lửa ở Sóc Trăng cho đến lúc thành người điên đứng đái ở đường phố Saigon. Có thời kỳ là xếp đại tá Y, thân phụ của cô ca sĩ đấu tranh Nguyệt Ánh. Ở miền Tây trong chiến dịch Thoại Ngọc Hầu thì gặp ông Dương Văn Minh. Đã từng rủ đại tá tư lệnh Nguyễn Hữu Có đi ciné xem phim Cầu Sông Kwai. Cùng đi chơi bời với tướng Nguyễn Văn Toàn ở ngã ba Vườn Chuối. Chuyện sai chuyện đúng, chuyện lớn chuyện nhỏ biết được khá nhiều.

Mới đây được anh Chu Xuân Viên nhắc lại khi viết báo Chính Luận cho Từ Chung tôi đã được Thế Uyên rủ rê đi họp nhóm Thái Độ tưởng dùng văn hóa mà nổi dậy làm cách mạng. Khi họp về bị an ninh quân đội bắt làm báo cáo. Tôi cóc báo cáo nhưng cũng thôi đi họp. Những bài báo trên Chính Luận chê trách các niên trưởng lại bị an ninh quân đội yêu cầu muốn tiếp tục viết báo phải làm đơn xin bộ Quốc Phòng. Chả dại gì mà xin, bèn thôi. Tất cả hồ sơ đến tay ông Khuyên đều được phê Xếp.

Những ân tình thông cảm như thế, làm sao quên được!
Khi ngành tiếp vận tổ chức kỷ niệm 10 năm thành lập, xếp Khuyên cầm tay hồ sơ dành cho riêng mình tôi lên cấp đại tá đặc cách. Tướng Vỹ bộ trưởng quốc phòng thấy chưa có bằng chỉ huy tham mưu cao cấp bèn từ chối. Ông Khuyên yêu cầu tướng Vỹ cho nợ. Đeo lon rồi đi học sau.

Khi mất nước ông Khuyên được trực thăng Mỹ chở ra biển Đông đêm 29 tháng 4-75. Vài hôm sau tàu quân vận của chúng tôi được Mỹ vớt lên thương thuyền. Đại tá Giao Chỉ nhà ta áo trận lon vàng còn cả tùy viên và chiến hữu đứng nghênh ngang không giống ai, bèn bị Marine Mỹ tước súng vất xuống biển. Ngó đi ngó lại thấy đủ 20 ông tướng di tản kể cả ông Kỳ, ông Trưởng và ông Khuyên. Các vị niên trưởng đã thay quần áo dân sự ngồi yên lặng mỗi người một góc, mặt dài như chiều đông. Ông Khuyên gọi tôi ngồi xuống, lấy kéo cắt chỉ gỡ cặp lon đại tá mà ông gắn cho tôi mấy năm trước tại bộ Tổng Tham Mưu. Ân tình của cậu bé Nam Định đối với ông nhà quê Gò Công biết đời nào tôi quên!

Người yêu nước ở miền Nam

Thời kỳ hơp tác với Mỹ chỉ huy Ủy ban Pathfinder tôi có dịp xem bản sao hồ sơ các tướng lãnh miềnNam do Mỹ lưu trữ. Ông nào ông ấy đều có chuyện nhỏ to. Hồ sơ ông Khuyên sạch boong với những ghi chú hết sức đặc biệt. 

"Cốt cách nông dân, hết sức thanh liêm, cá nhân và gia đình không có nhu cầu. Nhà trong cư xá, không có nhà riêng, không có xe riêng. Thậm chí không có chương mục ngân hàng. Không lấy lính làm gia nhân. Lợi tức bổ túc: nuôi gà.
Ghi chú: Trung tướng không biết lái xe, không biết khiêu vũ, không uống rượu, không hút thuốc, không có bạn gái. Không liên hệ với cộng sản như tin đồn. Không có bạn bè thân thiết ăn nhậu...                
Khuyết điểm: Quá say mê làm việc. Hay nổi nóng bất ngờ. Đôi khi quá tình cảm bao che cho thuộc cấp. Khi thảo luận về nhu cầu quân viện hay đòi hỏi vô lý. Nhân vật chính trong vụ chuẩn bị quỹ tiết kiệm nuôi quân tự túc ngoài chương trình viện trợ. Tuy nhiên, sau cùng đây là người yêu nước miền Nam, không có tinh thần kỳ thị".

Bản ghi chú về ông Khuyên đề ngày 13 Nov. 1972 với chữ ký của tướng Jos M. Heiser, Jr. xếp về logistics tại Ngũ giác đài. Bàn văn này ông đại tá Sheriff cố vấn đối nhiệm của tôi tại Pattfinder II cho xem trước khi về nước.

Nhà quản trị thanh liêm                                                           
Từ ngày ra trường, ngoài thời gian ông làm phụ tá cho tướng Thanh chỉ huy địa phương quân miền Tây, từ đó về sau tướng Khuyên chuyên về quản trị và tiếp vận. 

Ông là 1 sĩ quan vô địch về chuyên cần, ông say mê làm việc, có óc sáng tạo, có khả năng điều hành quân sự và hết lòng lo cho quân đội. Người thanh niên đất Gò Công với tấm lòng yêu nước bao la và tuyệt đối không màng đến quyền lợi riêng tư. Cấp bậc và chức vụ đuổi theo ông chứ ông không chạy theo chức vụ và cấp bậc. 

Suốt cuộc đời ngày đêm toàn chuyện quân đội, chuyện ngoài đời ông là tay khờ khạo. Không có bạn bè thân thiết trong tình đồng khóa, trong hàng tướng lãnh hay thuộc cấp. Tất cả đều là công việc và do đó khi thiên hạ đồn ông là cộng sản nằm vùng, lặn sâu trong hàng ngũ quân đội cũng dễ dàng cho đám nhẹ dạ tin theo.

Điều quan trọng là từ khi lên cấp tướng làm tổng cục trưởng tổng cục tiếp vận, ông được sự tin tưởng tuyệt đối của phái bộ viện trợ Hoa Kỳ. Báo chí Mỹ đôi khi có thể ca tụng các sĩ quan Việt Nam xuất sắc tại tiền tuyến nhưng báo cáo mật của Mỹ luôn luôn ghi lại những phê phán xuất sắc về tướng Đồng Văn Khuyên. Có thể nói thật sự ngay như ông Thiệu, ông Viên muốn thay thế ông Khuyên cũng không có người nào được Mỹ chấp thuận. Lòng yêu nước, sự tận tụy với công vụ và sự trong sạch vô địch của ông Khuyên đã giữ ông ở chức vụ có thể nói là không thể thay thế.

Thiếu tá Quý viết bài báo về ông xếp, ghi lại là vừa đi làm về thấy vợ báo cáo là chuồng gà bị hư, xếp cởi áo 3 sao vắt trên ghế, quần xà lỏn với áo thung rách, xếp lấy kìm búa sửa chuồng gà. Anh tài xế trố mắt đứng nhìn không tin là ông tướng thực. Không những thế gia đình ông lại sạch sẽ cả vợ lẫn chồng. Bà Khuyên từ lúc lấy chồng cho đến khi chồng lên trung tướng, dường như vẫn mãi mãi là người vợ lính chân quê.

Tướng Khuyên tác người nhỏ bé nhưng học hành xuất sắc. Khóa 1 Thủ Đức ra trường đậu thứ nhì. Phải mà ông to con, cao hơn một tấc chắc phải lãnh chức Thủ khoa. Toàn quân suốt 4 vùng chiến thuật, nếu không ở gần không ai hiểu rõ tướng Đồng Văn Khuyên. Tin tức đồn thổi láo lếu đã quả quyết ông Khuyên là cộng sản nằm vùng bà con với tướng cộng sản Đồng văn Cống. 

Sự thực hoàn toàn không hề liên hệ. Đã 40 năm qua, đêm nay tôi ngồi nhớ lại hành trình trên con tàu buôn chạy từ biển Đông mà đến đảo Guam. Mấy chục ông tướng hải lục không quân bây giờ sao chẳng còn ai. Bên không quân còn nhớ có ông Kỳ, ông Trần Văn Minh, ông Phan phụng Tiên. Bên Hải quân thấy có ông Hoàng cơ Minh. Các tư lệnh vùng có tướng Toàn, tướng Trưởng và còn rất nhiều niên trưởng tao ngộ trên cùng chuyến tầu. Ngày nay chẳng còn được mấy người. 

Phân trần cũng chẳng còn ai lắng nghe. Khi anh em ngồi trên tàu quân vận trên sông Saigon, thấy lửa cháy bên kho đạn Thành tuy Hạ. Tàu của bộ binh chúng tôi trôi trên sông Saigon theo tàu hải quân ra đi lần cuối.. Chúng tôi nghe tướng Vĩnh Lộc nói rằng sao đã chạy như chuột. Nhưng rồi ông cũng vội xuống tàu đi sau tàu của anh em. 21 năm binh nghiệp của chúng tôi trôi như lục bình. Nhưng mà còn đỡ. Hùng xùi anh em khóa Tư kẹt lại sau này đã nói rằng. Chúng mày chạy được là may. Bọn tao ở lại nhục lắm.

Họp mặt trại Trần Hưng Đạo.

Năm 2005 tôi tổ chức họp mặt trại Trần Hưng Đạo trên thủ đô Hoa Kỳ. Niên trưởng Cao văn Viên đau yếu không đến được. Xếp Khuyên đi chào bàn các chiến hữu gặp Vũ thế Quang, Nguyễn hữu Luyện, anh em cùng khóa của tôi. Các bạn ở tù hơi lâu. Luyện nhẩy Bắc năm 66 bị tù 21 năm trong đó có hơn 1 nửa thời gian cùm biệt giam.

Ông Khuyên nước mắt long lanh nói lời gan ruột. Ông nói: Kể ra mình chạy được cũng là hèn.
Đây là lần thứ ba tôi trông thấy ông khóc. Lần thứ nhất họp tại tổng tham mưu nói về Phước Long thất thủ. Lần thứ hai là ông cùng tướng Mỹ chạy lên Hóc Môn xem cảnh máy bay C5 chở cô nhi bị rớt. Và 30 năm sau họp mặt trại Trần Hưng Đạo năm 2005.

Thời kỳ mới qua Mỹ, vợ ông tướng bán chiếc nhẫn cưới trong trại để lấy tiền gọi điện thoại cho chồng còn ở đảo Guam. Qua Hoa Kỳ, tướng Mỹ bảo trợ cho tướng Việt Nam. Ông lớn nhà binh Mỹ ấm ớ hội tề không biết tiền xã hội Cali sẵn sàng giúp cho tỵ nạn học nghề làm lại cuộc đời.  Ông giới thiệu cho xếp tôi đi làm xếp bồi cho nhà hàng. Bà Khuyên được chồng nuôi cho đi học lại. Cả 2 vợ chồng đều không biết lái xe.

Hoàn cảnh ở Việt Nam như thế, hoàn cảnh ở Mỹ như thế. Vậy mà có thằng khốn nạn viết sách, viết báo nói ông Khuyên bán xăng bạc triệu để thành siêu tham nhũng. Nó nói là ông bán xăng ngay trên biển Đông. Bán xăng Mỹ theo kiểu quốc tế. Tàu dầu Hoa Kỳ thay vì đến kho xăng Nhà Bè thì ghé bán cho Singapore để ông Khuyên đưa tiền vào nhà băng Thụy Sĩ.

Tên khốn nạn lại còn viết rằng không quân VN chế ra loại bom xăng thả trực tiếp từng thùng 200 lít xuống mặt trận.  Các đơn vị cộng sản chết cháy cả trung đoàn. Nếu có đủ xăng mà đánh như thế thì phe ta không thua trận 75. Vì xếp Khuyên và cả thằng Lộc bán xăng bên Tân gia Ba nên quân ta không có xăng mà đánh hỏa công. Chúng nó nói thế mà cũng có người tin thì còn trời đất gì nữa!!!

Thưa niên trưởng,
Ngày nay tuy không ở gần nhưng tôi vẫn hiểu ông trước sau như một. Những ngày cuối ông để mọi việc ngoài tai. Ông tìm đường đi vào đạo Phật. Người ông nhẹ tênh. Tôi lên thăm ông xếp. Ông nhìn tôi cười thật tươi.

Tôi mời ông ra vườn sau có ánh nắng để chụp bức hình kỷ niệm. Tôi đưa ông cầm bức tượng Tiếc Thương như để thầy trò nhớ lại ngày xưa khi buồn phiền mình lên thăm nghĩa trang quân đội. Toàn quân các binh chủng đều bình đẳng về đất nằm dài dưới ánh mặt trời chói chang cờ vàng. Sao kỳ này chuẩn úy chết quá nhiều. Cũng như mình ngày xưa. Mới ra trường sợ lính cười nên anh sĩ quan trẻ hiên ngang xông ra đằng trước.

Ông xếp là nội trợ của toàn quân. Lính sống, lính chết đều là con cái của mẹ già. Thiên hạ nói là tại sao phe ta không chuẩn bị để tự chiến đấu nếu bị Mỹ bỏ rơi. Thưa quý ngài, chúng tôi cũng có tính đến bài chiến đấu một mình.

Ông Khuyên đã từng tích cực tham dự vào chương trình quỹ tiết kiệm quân đội. Trích lương lính mỗi tháng 100 để xây dựng công binh xưởng. Than ôi, mộng lớn chưa biết có thành không mà Mỹ cùng ba Tàu Chợ Lớn đã xúm lại đánh xập dự án tự túc tự cường. Ông Thiệu, ông Khiêm còn không đỡ nổi.

Bây giờ 40 năm sau, nhân danh tổng thư ký của buổi họp bài trừ tham nhũng tại bộ tổng tham mưu ngày xưa, tôi xin thưa rằng vị chủ tọa hôm đó là trung tướng Đồng Văn Khuyên. Ông  là người sạch nhất trong hàng tướng lãnh. Có anh trung úy tốt nghiệp chiến tranh chính trị đứng lên hỏi rằng có thể trung tướng tham nhũng nhưng giỏi quá, khéo dấu thì sao.

Ông xếp tôi ngồi thừ người rồi nghẹn ngào nói rằng:
- Tôi mà bê bối thì xin ra lăng ông bà Chiểu bẻ cổ gà mà thề.  "Qua mà ăn thì xe mười bánh ăn qua đi."
Ôi ! xếp Khuyên, nghe ông nông dân Gò Công nói như thế, anh em thương ông biết là bao! Bây giờ, viết lại chuyện cũ, còn ai đọc mà hiểu được những tình tiết này. Người biết không nói. Người nói không biết. Biết hay không biết, tất cả đều qua đi.

Ngày mai khi ông ra đi, phải chi tôi còn tìm được can xăng quân đội mà bán để lấy tiền mua vé máy bay lên Was. DC tiễn đưa ông lần cuối... thì phải lẽ biết chừng nào!

Thưa niên trưởng, kiếp sau xin chớ làm người. Làm cây thông đứng giữa trời mà reo...