Cái chết của TT
Diệm là món nợ lịch sử
27 Octber 2013
Phần I: Công Lao của Tổng Thống Ngô Đình Diệm đối với Việt Nam
Vì sao cái chết
của TT Ngô Đình Diệm lại là một món nợ của lịch sử? Vì đó là món nợ “quốc gia
hưng vong” mà những kẻ giết người, những kẻ đã và còn đang thỏa mãn với hành động
phi pháp này, cũng như những kẻ đã phỉ báng ông bằng những tội ác mà ông chưa từng
bao giờ làm, phải nợ dân tộc Việt Nam một trang sử oan nghiệt: đó là vì mất ông
mà quốc gia Việt Nam đã bị cộng sản thôn tính, dẫn đến con đường Bắc Thuộc Hán
hóa như ngày hôm nay.
Một cách đơn giản những kẻ
giết người họ phải nợ quốc gia dân tộc vì họ đã giết nguyên thủ quốc gia trong
tình trạng đất nước đang dầu sôi lửa bỏng cần sự dìu dắt của ông.
Nói một cách khác
những kẻ giết ông và những kẻ đã hả hê về cái tội ác này đã “chặt đầu Việt
Nam”, theo như cách nói của bà Ngô Đình Nhu.
Còn nói theo Bộ Quốc Phòng
Hoa Kỳ thì “Thus, as the nine-year rule of Diem came to a bloody end, our
complicity in his overthrow heightened our responsibilities and our commitment
in an essentially leaderless Vietnam ” (Pentagon Papers viii).
Chín năm cầm
quyền của Diệm chấm dứt trong máu, sự đồng lõa của chúng ta trong việc lật đổ
ông ta đã làm tăng thêm trách nhiệm cũng như sự trói buộc của chúng ta vào
trong một đất nước Việt Nam hoàn toàn không có lãnh đạo.
Hồi tưởng lại giai đoạn bi
thảm đó, toà án nhân dân Phật Giáo Tranh Đấu gồm những nhà sư và các đội “Phật
Tử Quyết Tử” đã đi khắp nơi và đã cuồng nhiệt gào thét các khẩu hiệu “Phật Giáo
bị bách hại” “Đàn áp quý thầy” “Độc tài gia đình trị” “Mật vụ Nhu Diệm” “Diệm
mà không Diệm”mà không cần phải đưa ra một bằng cớ nào cả. Chỉ cần nói có tội
là đủ có tội!
Cụ thể người ta
đã đấu tố chính quyền VNCH như sau: Hòa Thượng Hội Chủ Phật Giáo Thích Tịnh Khiết
đã bị giết, hằng trăm Phật tử đã bị chính quyền dìm chết dưới sông Sài gòn, nhiều
ni cô đã bị mổ bụng, và chùa Xá Lợi đã bị đốt cháy,các nhà sư đã bị ném từ trên
các tầng lầu cao xuống vào đêm Thiết quân luật 20/8/1963 khi lực lượng quân đội
của chính quyền Tổng Thống Diệm mở cuộc hành quân lục soát chùa Xá Lợi.
Thậm chí “Phái Đoàn cũng
đã tìm gặp được một số nhà sư lãnh đạo Phật Giáo và thanh niên phật tử mà theo
những báo cáo trước đây mà phái đoàn đã nhận được rằng những người nầy đã bị
chính quyền của Tổng Thống Diệm giết chết, nay hóa ra đó chỉ là những báo cáo
khống, không đúng sự thật.” (Báo cáo của Đại Sứ Volio phái đoàn điều tra LiênHiệp
Quốc).
Tóm lại, ông
hoàn toàn vô tội, nhưng người ta đã giết ông và vu cho ông cái tội đó. Vì vậy nếu
nói rằng chỉ có ở Miền Bắc mới có đấu tố mà Miền Nam không có, điều này xem ra
không đúng. Miền Nam cũng có đấu tố:
Nguyên thủ quốc gia và Cố
Vấn bị thảm sát ngày 2/11/1963, hai nạn nhân nữa đã bị hành quyết vào cùng một
ngày 9/5/1964, các ông Phan Quang Đông và Ngô Đình Cẩn, một nạn nhân nữa cũng
đang chờ đợi đem ra pháp trường xử bắn, ông Đặng Sĩ, và hàng ngàn những mảnh đời
đã bị đào tận gốc trốc tận rễ nơi chốn lao tù vì can tội “tay sai” của cái
chính quyền “Nhu Diệm đàn áp Phật Giáo” đó.
Tuy nhiên,
không bàn tay nào có thể che nổi mặt trời. Năm mươi năm đã trôi qua Tổng Thống
Ngô Đình Diệm vẫn là Tổng Thống Ngô Đình Diệm mà câu nói của TT Tưởng Giới Thạch
“Một trăm năm nữa thì Việt Nam cũng không thể tìm được một người như Tổng Thống
Ngô Đình Diệm” và câu nói của Tổng Thống Eisenhower “He’s a miracle man” là một
hằng số không gì thay đổi được.
Nhân 50 năm ngày thác oan
của Tổng Thống, xin được nhắc lại đôi dòng về ông.
1.- Thân thế, tiểu sử của TT Ngô Đình Diệm:
Khi nói về TT
Ngô Đình Diệm, nét điển hình mà người ta thấy được ở ông đó là một nhà nho trí
thức nhưng lại theo tây học, dòng dõi quan quyền khoa bảng và một nhân cách
liêm chính quân tử, một nhân vật chính trị thông minh kiệt xuất với tư tưởng chống
cộng triệt để.
Một cây trúc của quan niệm
Á Đông: Cá nhân TT Ngô Đình Diệm là sự thể hiện đồng thời của cả ba triết lý
Nho Giáo, Thiên Chúa Giáo và triết lý Đông Phương.
Nền tảng Nho
Giáo đã tạo cho cá nhân ông cách hành xử khắc kỹ, quân tử, Thiên Chúa Giáo đã
đem đến cho ông đức bác ái, bao dung công chính, và triết lý văn minh phương
tây đã đem đến cho ông kiến thức cấp tiến và cởi mở về tự do dân chủ.
Và bao trùm lên tất cả các
nền giáo dục Đông Tây mà ông đã được may mắn lãnh hội, đó là thượng đế đã ban
cho ông tư chất thông minh và tấm lòng ái quốc yêu dân mãnh liệt.
Nói về Tổng Thống
Ngô Đình Diệm, có thể tóm tắt bằng câu nói của Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận,
cháu ngài, khi nói với cậu mình với đức khâm sứ Tòa Thánh như sau như sau: Cậu
Diệm của con là một người hoàn hảo.
Những tài liệu của chính
thức của VNCH ghi rằng ông sinh ngày 3 tháng 1 năm 1901 tại Phước Quả, Thừa
Thiên. Nguồn tuyên truyền nói rằng ông sinh tại Quảng Bình năm 1897 vì là con của
vợ thứ cụ Ngô Đình Khả, nhưng không cho biết vợ thứ là ai, và sinh trước ĐGM
Ngô Đình Thục. Nguồn tuyên truyền này có quá nhiều điểm vô lý.
Trên thực tế Đức
Giám Mục Ngô Đình Thục trông già dặn hơn TT Ngô Đình Diệm rất nhiều. Tóm lại
qua sự việc về ngày sinh của ông, cho thấy người ta đã không từ nan bất cứ những
gì để bôi nhọ ông.
Là con trai thứ 4 trong một
gia đình có truyền thống chính trị, nổi tiếng về lòng yêu nước và chống cộng
triệt: ông anh cả Ngô Đình Khôi tổng đốc Quảng Nam và con là Ngô Đình Huân cả
hai đã bị cộng sản giết, Ngô Đình Luyện đại sứ VNCH tại Anh, Ngô Đình Cẩn linh
hồn thực sự của lực lượng tình báo Đoàn Đặc Nhiệm Miền Trung.
Trong gia đình,
Tổng thống Ngô Đình Diệm là người con tài ba đức độ nhất của Đại Thần Ngô Đình
Khả. Ngoài thân phụ ra, ông còn chịu ảnh hưởng bởi dưỡng phụ Nguyễn Hữu Bài
cũng là một nhà Nho ái quốc, đức độ uyên bác Đông Tây như cụ Ngô Đình Khả.
TT Ngô Đình Diệm tư chất rất
thông minh: 16 tuổi đổ nhì Thành Chung, 17 tuổi được mời dạy Quốc Tử Giám và 18
tuổi vào học trường Hậu Bổ ( tương đương với Quốc Gia Hanh Chánh) năm 21 đổ thủ
khoa. Ông đặc biệt xuất sắc trong các môn học về hành chánh, luật pháp và chính
trị .
Ngay sau tốt
nghiệp, ông được bổ nhiệm làm tri huyện Quảng Điền Huế, Hải Lăng Quảng Trị. Bảy
năm sau, 29 tuổi, ông được bổ làm Tuần Phủ Ninh Thuận và Bình Thuận, tức là tỉnh
trưởng. Dưới sự lãnh đạo của ông, Ninh Thuận và Bình Thuận có đời sống kinh tế
khả quan, có chiến lược cụ thể đối phó với sự tuyên truyền của cộng sản và phá
vỡ nhiều mạng lưới nằm vùng.
Uy tín này lan đến triều
đình cho nên năm 31 tuổi ông được mời làm thượng thư Bộ Lại, tương đương với chức
Thủ Tướng Chính Phủ. Năm 33 tuổi ông được mời kiêm nhiệm chức vụ Tổng Thư Ký hội
đồng Hỗn Hợp Việt Pháp.
- Với chức vụ
quan trọng bậc nhất quốc gia này, ông đòi hỏi nhiều quyền lợi cho đất nước. Ông
yêu cầu người Pháp thực thi việc thống nhất đất nước bằng việc sát nhập Trung Kỳ
và Bắc Kỳ, thực hiện dân chủ bằng cách cho phép Viện Dân Biểu được lo những vấn
đề quốc sự giống như Quốc Hội.
Nhưng đề nghị của ông
không được Toàn Quyền Pasquier chấp thuận. Thấy việc tham chính của mình không
thể đem lại lợi ích cho đất nước, ông xin từ chức Thượng Thư, chọn con đường
làm thường dân để phục vụ đất nước theo cách riêng của ông, năm đó ông chỉ 33
tuổi.
Hành động từ
quan này làm chấn động Triều Đình Huế và Chính Phủ Pháp. Điều này chứng minh rằng
ngay khi còn rất trẻ, ông đã là người không hề màng danh lợi. Nó cũng bẽ gãy luận
điệu của những kẻ bất tài không được ông sử dụng đem lòng oán hận luôn rêu rao
rằng ông độc tài tham quyền cố vị.
Với tiết tháo xem thường
danh lợi như vậy, những ai đến bây giờ còn cho rằng Tổng Thống là một người độc
tài gia đình trị thì rõ ràng họ chỉ là những kẻ vu khống và muốn sửa đổi lịch sử,
nhưng tiếc rằng họ chẳng bao giờ có khả năng làm điều đó.
Thâm tâm ông,
con đường phục vụ quốc gia qua chức vụ Thượng Thư Bộ Lại không thể thực hiện được
nên ông đã quyết định chọn con đường khác, đó là từ chức để có thì giờ học hỏi
về chính trị luật pháp xã hội và cũng để kín đáo hoạt động chống Pháp.
Trong 17 năm ở ẩn, ông đọc
rất nhiều sách vở về chính trị phương tây, về cộng sản chủ nghĩa về các phong
trào đòi độc lập. Song song với việc nghiên cứu chính trị, ông liên kết với các
nhà cách mạng có uy tín khác như Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, cụ Phan Bội Châu trong
phong trào Cường Để, ông cũng là đại diện chính thức của Kỳ Ngoại Hầu tại Việt
Nam.
Ông đã từng nói
“người Pháp chỉ là giai đoạn và sớm muộn gì Pháp cũng phải trao trả độc lập cho
Việt Nam , mà cộng sản mới là nguy cơ trầm trọng và
dài hạn. Tuy nhiên nếu giữ được Nam Kỳ là giữ được nước”. Theo ông, nếu Miền Nam lọt vào tay cộng sản thì cuối cùng sẽ lọt
vào tay Trung Cộng.
Chúng ta cũng hiểu một
cách đơn giản : Nếu mất Nam Kỳ vào tay cộng sản là mất nước. Khi rời Dinh Độc Lập
vì bị bọn phản tướng làm lọan, ông đã nói câu cuối cùng” Như ri là mất nước rồi!”.
Điều này đã diễn ra đúng như lời nhận xét của ông 11 năm sau đó!
Có quá nhiều điều
ông phát biểu từ mấy chục năm trước đã trở thành hiện thực. Người ta ca ngợi
ông là người có viễn kiến chính trị, điều này theo chúng tôi chưa chính xác lắm.
Ông không phải là một nhà tiên tri chính trị mà thực sự ông là một nhà toán học
chính trị, tính toán chính xác đường bay quỹ đạo chính trị thuộc về chiến lược.
Ông có sở học sâu sắc và một
năng khiếu đặcbiệt về chính trị cộng với tư chất thông minh đã làm ông trở
thành người thấy xa trông rộng, một yếu tố không thể thiếu của lãnh đạo quốc
gia.
Pháp đánh giá
được tiềm năng và tâm huyết của ông, vì vậy cuộc sống ẩn dật ngụy trang cho các
hoạt động bí mật của ông không làm sao qua được tầm theo dõi của Pháp. Toàn Quyền
Đông Dương Jean Decoux ra lệnh bắt ông đi đày ở Lào, ông được mật báo và trốn
vào Sài Gòn.
Một thời gian sau, ông bị
Hồ Chí Minh bắt sau đó ông lại may mắn thoát khỏi bàn tay của y. Ông sang Nhật
gặp Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, tại đây, Kỳ Ngoại Hầu khuyên ông sang Mỹ để tìm sự hậu
thuẫn của Hoa Kỳ, mà không thể trông cậy vào Nhật hay chờ đợi gì từ Pháp.
Sang Mỹ, qua sự
giới thiệu của Hồng Y Spellnam, ông được sự tiếp xúc và đánh giá cao của một số
chính trị gia Hoa Kỳ, thẩm phán Tối Cao Pháp Viện William Douglas dân biểu Kennedy,
Mike Mansfield v,v.. Ông tham gia diễn
thuyết về các vấn đề Việt Nam, Châu Á và hiểm họa cộng sản tại một số các trường
Đại Học.
Một số nhân vật trong quốc
hội và chính quyền Hoa Kỳ đã chú ý đến ông, nhưng chưa bao giờ chính quyền Hoa
Kỳ quyết định chọn ông làm một con bài chính trị.
Giả thuyết cho
rằng nhờ sự vận động của Hồng Y Spellman cho nên ông được chính giới Hoa Kỳ đưa
về làm Thủ Tướng là một giả thuyết không đứng vững. Theo luật pháp Hoa Kỳ Hồng
Y Spellman không có quyền và trên thực tế ông cũng không có khả năng can thiệp
vào chính quyền Hoa Kỳ.
Và nếu như được chính quyền
Hoa Kỳ ủng hộ, thì những năm sau đó Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã không phải nản
lòng rời Hoa Kỳ bôn ba sang Châu Âu tìm kiếm sự hổ trợ khác.
Tình hình Miền Nam trước khi TT Ngô Đình Diệm về nước rất tuyệt
vọng. Cựu hoàng Bảo Đại trong cuốn hồi ký đã xác nhận yêu cầu ông về lập chính
quyền, ông từ chối và thưa rằng sau bao năm bôn ba, giờ đây ông muốn trải cuộc
đời còn lại trong một tu viện dòng kín.
Cựu Hoàng Bảo Đại lộ vẻ tức
giận và dẫn ông vào một căn phòng vắng, đưa cho ông một cây thánh giá và nói rằng
“ Đây chúa của ông đây, ông hãy thề trước mặt chúa là gìn giữ đất nước Việt
Nam, ông phải bảo vệ nó để chống lại cộng sản, nếu cần phải chống cả người
Pháp.
Cầu nguyện hồi
lâu một mình trong phòng kín, ông trở ra nói với cựu hoàng là ông nhận lời. Vì
không đành tâm đứng nhìn đất nước rơi vào tay cộng sản, TT Ngô Đình Diệm nhận
đã nhận lời.
Để có thể chu toàn nhiệm vụ,
ông đã yêu cầu cựu hoàng phải giao cho ông toàn quyền về quân sự lẫn dân sự để
lèo lái đất nước. Trên thực tế, lúc đó Cựu Hoàng đã hoàn toàn không hề có binh
quyền hay chính quyền gì cả để giao cho ông.
Có chăng cựu
hoàng đã giao cho TT Ngô Đình Diệm một Miền Nam đầy tham nhũng bài bạc đĩ điếm
và thuốc phiện ma túy và những tay anh chị khét tiếng như Bảy Viễn, Nguyễn Văn
Hinh, và giao cho ông sứ mạng nặng nề và nguy hiểm nhất đó chống lại bóng đen của
khối cộng sản đang có sức mạnh khổng lồ về quân sự và tiền bạc để nuốt chửng Miền
Nam.
Miền Nam lúc đó, không có
tổ chức quân sự cũng như kinh tế nào khả dĩ có thể đối đầu với đảng cộng sản đã
có trên 24 năm kinh nghiệm, sẳn sàng sử dụng những thủ đoạn chính trị vô cùng
tàn bạo và sau lưng là nguồn viện trợ vũ khí tiền bạc dồi dào từ khối cộng sản
Đông Âu, Liên Xô và quan trọng nhất là Mao Trạch Đông.
Trong khi đó
thì chí sĩ Ngô Đình Diệm chỉ có một mình ông và người em đang sống tại Việt Nam
là Cố Vấn Ngô Đình Nhu, đang cố gắng hết sức lực của mình để kiếm nguồn ủng hộ
cho anh mình trong nước.
Vì lý do đó cho nên chính
quyền Hoa Kỳ đã không muốn phiêu lưu uy tín của họ để ủng hộ Thượng Thư Ngô
Đình Diệm, mặc dù chính phủ Pháp lúc đó đang hết sức kiệt quệ, một điều kiện tốt
cho Hoa Kỳ đang muốn thay thế Pháp có mặt tại Đông Dương.
Tóm lại, về
thân thế sự nghiệp, tổng thống Ngô Đình Diệm trước khi về nước đã từng là một vị
thượng thư trẻ tuổi không màng danh lợi, quyết tâm chống Pháp và chống cộng tới
cùng.
Và ông đã nhận lời cựu
hoàng Bảo Đại để gìn giữ một quốc gia đang đứng trên bờ vực thẳm chờ cộng sản
thâu tóm. Binh quyền không có mà chính quyền cũng không có, ông một thân một
mình về nước đảm nhận sứ mệnh mà chỉ có một người ái quốc mãnh liệt mới dám an
bài số phận bấp bênh đó cho mình.
Do đó, lập luận
cho rằng TT Ngô Đình Diệm về nước chấp chánh là do sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ qua
bàn tay của Hồng Y Spellman chỉ là sự dèm pha để phủ nhận tài năng của ông.
Người đã cậy nhờ chí sĩ
Ngô Đình Diệm nắm lấy chức vụ thủ tướng không ai khác ngoài cựu hoàng Bảo Đại,
như ông đã tự xác nhận trong cuốn sách “ Con rồng Việt Nam”. Và chỉ có vậy!
Đó là sự thật lịch sử mà
không ai có thể chứng minh khác được!
2. Hoàn cảnh đất nước khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm về chấp chính:
Muốn đánh giá công hay tội
của một vị lãnh đạo quốc gia, lịch sử phải xem xét gia tài mà vị lãnh đạo đó tiếp
nhận trước khi điều hành đất nước, và so sánh với những đất nước có được sau
khi họ rời chức vụ. Thế nhưng, đối với tổng thống Ngô Đình Diệm, những kẻ chê
bai hay kết tội ông đều không bao giờ dám đề cập đến hoàn cảnh của Miền Nam vào thời điểm 1954.
Tại sao họ
không dám đề cập? Bởi vì khi về nước, binh quyền mà ông có được là 12 người cảnh
sát thay phiên nhau canh giữ dinh Gia Long. Miền Nam lúc đó hoàn toàn không có
quan hệ lãnh đạo, mà chỉ có nạn thập nhị sứ quân. Đó là một con rắn không đầu,
mỗi người thống trị một lãnh vực và khu vực.
Tất cả những khuôn mặt nổi
bật bấy giờ như Bảy Viễn, Ba Cụt, Lại Văn Sang, Nguyễn văn Hinh và các giáo
phái v.v mỗi người hùng cứ một phương và thủ đắc các phương tiện kiếm chác tài
chánh riêng cho mình, không ai chấp nhận từ bỏ quyền lực để phục vụ cho quốc
gia dưới sự điều động của một chính phủ trung ương. Quân sự, kinh tế, ngoại
giao, tài chánh, hối đoái, quan thuế đều thuộc quyền của Pháp và các tay sai
Pháp, trong lúc đó thì Việt Cộng nằm vùng được cài đặt tràn đìa.
Tổng Thống Diệm
chỉ có quyền với 12 người cảnh sát gác dinh Gia Long và một ngân khố quốc gia
trống rỗng, bên cạnh đó là một Miền Nam mà hạ tầng cơ sở bị phá hủy. Chiến
tranh tàn phá nặng nề toàn bộ ruộng đồng bỏ hoang, thất học và thất nghiệp tràn
lan, tham nhũng cờ bạc đĩ điếm, thuốc phiện.
Và nguy hiểm nhất là mạng
lưới cộng sản rất mạnh, đang được sự viện trợ của Tàu và Liên Xô từ lâu, đã và
đang phát triễn dày đặc khắp đất nước. Bên cạnh đó là gánh nặng ngàn cân về an
ninh chính trị và xã hội của một triệu người mới di cư từ Bắc vào Nam tháng 8 năm 1954.
Sự giúp đỡ của
Hoa Kỳ cho ông lúc bấy giờ là một nhân viên CIA Mỹ cố giúp ông để chiêu dụ những người
đang nằm trong các phe phái khác, Đại Tá Edward Lansdale .
Một cách ngắn gọn, Ông
không có bất cứ một quốc gia đồng minh nào có thể nương nhờ khi ông về nước,
trong khi đó cộng sản Hà Nội có cả một nguồn viện trợ khổng lồ từ Liên Xô, Đông
Âu và đặc biệt là Trung Cộng và đã hoạt động từ năm 1930.
Ông ngay cả
cũng không có được một đảng phái hay một tổ chức quốc gia quan trọng nào làm hậu
thuẫn, và tài chánh thì quá eo hẹp, trong khi đó thì ông lại có quá nhiều kẻ
thù: Pháp và tay sai, các Giáo Phái và Bình Xuyên, mà nguy hiểm nhất là cộng sản.
Một số các chính trị gia
khác đồng ý hổ trợ cho ông vì lúc đó thật sự mà nói chẳng ai dám dấn thân lãnh
nhận một tài sản quốc gia thảm thương như thế. Nhưng ông đã chấp thuận, vì chỉ
một lẽ duy nhất: ông yêu nước!
3.- Những thành tựu TT Ngô Đ. Diệm đã đem lại cho đất nước
Sau 11 tháng cầm
quyền trong sóng gió Thủ Tướng Ngô Đình Diệm đã ổn định tình hình chính trị tuyệt
vọng của Miền Nam nhờ vào uy tín và lòng can trường của ông.
Sau 11 tháng theo dõi khả
năng và những thành tựu của ông, chính phủ Eisenhower không còn thấy mình phiêu
lưu khi hổ trợ cho Ngô Đình Diệm nữa, mới chính thức quyết định hổ trợ cho ông.
Một số bài viết
và dư luận cho rằng Mỹ đã hổ trợ và viện trợ rất nhiều cho TT Ngô Đình Diệm
ngay khi ông về nước, nhờ vậy ông mới làm nên cơm cháo. Điều này hoàn toàn
không đúng.
Căn cứ vào các sự kiện lịch
sử xảy ra lúc bấy giờ và căn cứ vào các tài liệu được giải mã cách đây hơn 15
năm thì quả thật số viện trợ cho TT Ngô Đình Diệm khi ông về nước trong 11
tháng đầu tiên hầu như chỉ là con số không.
Nổi bật chỉ có
sự tiếp xúc và vận động kín đáo của Đại Tá Edward Lansdale với các phe nhóm
chính trị như Cao Đài Hòa Hảo để thuyết phục họ ủng hộ TT Ngô Đình Diệm v.v.
Xin dẫn chứng sự yểm trợ yếu
ớt và đầy nghi ngờ của Hoa Kỳ cho chính phủ TT Ngô Đình Diệm giai đoạn
1954-1955 như sau: cứ hai lần mỗi tháng, Joe Lawton Collin, bạn thân tổng thống
Eisenhower, và là đặc sứ của ông tại Sài Gòn, đề nghị tổng thống Eisenhower phải
loại bỏ Diệm và thay thế bằng Phan Huy Quát hay Trần Văn Đỗ.
Còn người Pháp
thì khỏi nói, họ xem TT Ngô Đình Diệm là kẻ thù của họ. Hãy nghe tướng Pháp
Paul Ely đại diện tối cao của Pháp phá đám với người Mỹ như sau:” Ông ta chỉ là
tên bù nhìn tệ hại nhất không được nhân dân ủng hộ. Cho nên vì lợi ích của Việt
Nam và lợi ích của thế giới, không nên cứu Diệm”.
Chính phủ Hoa Kỳ có lúc đã
tin rằng chính phủ Ngô Đình Diệm sẽ không tồn tại quá sáu tháng và vì vậy họ chỉ
viện trợ rất cầm chừng với thái độ chờ xem, và thậm chí đã có những chỉ dấu loại
bỏ ông, như Collin đã ngày đêm thuyết phục tổng thống Eisenhower và tổng thống
Eisenhower đã sắp sửa nghe lời Collin.
Bất thần, trong
tình huống tuyệt vọng đó, đầu tháng 5 năm 1955, tổng thống Ngô Đình Diệm với
lòng can đảm và sự sáng suốt, ông đã lật ngược thế cờ, triệt hạ những tên trùm
Bảy Viễn, Lại Văn Sang, Nguyễn Văn Hinh, thu phục được sự ủng hộ của Cao Đài
Hòa Hảo và các tướng như Trịnh Minh Thế.
Với sự thành công tuyệt vời
này, Hoa Kỳ từ đó mới dám thở phào viện trợ cho chính phủ TT Ngô Đình Diệm, triệu
hồi Lawton Collin về nước.
Có thể tóm tắt
công lao của tổng thống Ngô Đình Diệm trong việc tái thiết và ổn định Miền Nam
qua lời nhận xét của một vĩ nhân thế giới, Tổng Thống Eisenhower như sau: He is
a miracle man.
Không thần kỳ sao được khi
từ một quốc gia bị sáu vấn nạn: một là là chiến tranh tàn phá từ 1945 đến 1954,
hai là vấn nạn chia rẽ ly tán thập nhị xứ quân, ba là vấn đề giáo dục cộng đồng
quá thấp, bốn là tệ nạn xã hội đen tràn lan đến độ lấn lướt cả chính quyền, năm
là thực dân Pháp và tay sai người Việt vẫn nắm quyền lực chính về kinh tế và
quân sự, sáu là, và nguy hiểm nhất là, phải đối đầu với khối cộng sản thế giới,
ông đã làm cho Miền Nam trở thành Hòn ngọc Viễn Đông!
Ai có thể phản
bác lại lời của Tổng Thống Eisenhower rằng Tổng Thống Ngô Đình Diệm không phải
là một miracle man, một con người của huyền thoại?
Vài nét chính về những
thành tựu trong việc tái thiết xứ sở dưới sự cầm quyền của TT Ngô Đình Diệm:
1- Cuộc di cư vĩ
đại trong lịch sử của Việt Nam năm 1954
Đây là một
thành tích vĩ đại của Tổng Thống Ngô Đình Diệm mà không ai có thể phủ nhận. Lịch
sử Việt Nam sẽ ghi nhớ công ơn của TT Ngô Đình Diệm.
Đáp máy bay về nước ngày
26 tháng 6 năm 1954, ngày 30 tháng 6 ông bay ra Hà Nội để xem xét dân tình,
ngày 20 tháng 7 năm 1954 Pháp và Bắc Việt ký hiệp ước chia đất nước Việt Nam.
Tổng thống Ngô
Đình Diệm tuyệt vọng bay ra Hà Nội ngày 3 tháng 8, đọc một bài diễn văn kêu gọi
dân chúng theo ông di cư vào Nam xây dựng đất nước tự do, và khoảng một triệu
người đã nghe ông theo ông vào Nam với sự trợ giúp bằng không vận và đường hàng
hải của Hoa Kỳ, Pháp, Thụy Sĩ v.v..
Ngày 4 tháng 8 cuộc di cư
chính thức bắt đầu. Trong lúc chính quyền đang còn rất mong manh, bị sự chống đối
và hoành hành của Bình Xuyên Bảy Viễn, Nguyễn Văn Hinh, Tổng Thống đã lập Phủ Tổng
Ủy Di Cư đảm nhận việc tiếp thu gần một triệu đồng bào Miền Bắc vào Nam.
Lo ổn định đời
sống cho khoảng một triệu người ồ ạt di cư vào Nam trong một thời gian chỉ hơn
một tháng và gìn giữ cho đời sống vật chất an ninh xã hội tại Miền Nam không bị
rối loạn phải nói là một công việc quá phi thường vượt quá sức của một chính phủ
còn quá non trẻ, không tiền, trên nền tảng của một quốc gia bị chiến tranh tàn
phá, chia rẽ, tệ nạn xã hội và cộng sản hoành hành.
Hãy so sánh tất cả các cuộc
di cư, nhập cư và tị nạn của tất cả các quốc gia trên thế giới đê thấy rằng
chưa có một vị nguyên thủy quốc gia nào có khả năng làm việc như Thủ Tướng Ngô
Đình Diệm.
Ông gìn giữ xã
hội Miền Nam không bị rối loạn vì số lượng di dân quá bất thần và quá lớn, cung
cấp những dịch vụ cần thiết như nhà ở thực phẩm y tế thuốc men, giáo dục cho một
triệu người và nhanh chóng ổn định đời sống họ trong vòng vài tháng.
Ai có thể phủ nhận được nỗ
lực kinh khủng và khả năng tổ chức hiếm có, sử dụng, và theo dõi đồng tiền viện
trợ một cách hữu hiệu, và đặc biệt là sự cần kiệm của chính phủ Thủ Tướng Ngô
Đình Diệm trong vấn đề định cư một số quá lớn người như thế?
Điều gì đã làm
cho ông can đảm đứng ra lãnh nhận gánh nặng to lớn này và đã hoàn thành tốt đẹp
công tác định cư cho cả triệu đồng bào trong tình thế bấp bênh của chính quyền
và đất nước như thế? Không gì khác hơn đó chính là lòng yêu nước thương dân vô
hạn và sự can đảm thông minh phi thường của ông!
2/ Giáo dục và y
tế:
Trong khi ở Miền Bắc, giáo
dục rất thiếu sót chương trình trung học chỉ có 10 năm, và đội ngũ khoa học kỹ
thuật của họ rất tồi tệ, thì ở Miền Nam Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã có những điểm
sáng chói như sau: Chương trình trung học ở Miền Nam đúng theo tiêu chuẩn quốc
tế là 12 năm. Chương trình đại học cũng có chất lượng của các nước phương Tây.
Xin được dẫn chứng
vài thí dụ: Chương trình mở mang giáo dục dưới thời TT Ngô Đình Diệm đem lại số
học sinh và số trường trung học tiểu học tăng vọt hàng năm với tốc độ khoảng
60% 70%. Từ năm 1957 đến 1961, số học sinh và trường học tăng lên gấp 4.
Ông cũng cho thành lập rất
nhiều các trường dạy nghề. Về giáo dục đại học, tổng số sinh viên tăng trong
vòng 3 năm là 60% vào năm 1957.
Đại Học công lập
Huế và đại học tư thục Đà Lạt được mở ra dưới thời của TT Diệm theo sau là Viện
Đại học Sài Gòn The University of Saigon, là một viện đại học công lập, được
thành lập vào năm 1957 dưới chính quyền của Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Đây là viện đại học được
xem là có uy tín nhất ở Miền Nam Việt Nam, cung cấp các giáo sư đi thỉnh giảng ở
các viện đại học khác. Viện đại học này cấp bằng cử nhân, thạc sĩ, và tiến sĩ.
Năm 1961 ông
cho thành lập Đại Học Y Khoa Huế. Số sinh viên chỉ trong vòng 3 năm sau khi ông
về nước chấp chánh đã tăng lên gấp 4 lần đồng thời chính phủ cũng có chương
trình cấp học bổng cho sinh viên du học ở các nước tiên tiến phục vụ mục tiêu
Việt Nam hóa đội ngũ giáo sư đại học với tiêu chuẩn quốc tế.
Trường Đại Học Y Khoa là một
dẫn chứng cụ thể rằng Tổng Thống coi trọng quốc thể, vào năm 1961 trường này đã
hoàn toàn không còn giảng viên người Pháp. Xin được lập lại, chỉ sau 5 năm cầm
quyền, ông đã xây dựng được một trường hệ thống Đại Học mà các nước trong vùng
phải kính nể.
Ông đã chứng
minh cho thế giới thấy người Việt Nam hoàn toàn không thua bất cứ một dân tộc
nào trên thế giới. Nhiều bệnh viện nổi tiếng chẳng hạn bệnh viện Bình Dân cũng
được thành lập để phục vụ nhu cầu chữa bệnh cho dân chúng và giảng dạy y khoa.
3/ Kinh Tế:
Nhờ kiến thức sâu rộng về
chính trị, bản chất thông minh, trọng của công, cần kiệm và rất cẩn trọng trong
việc sử dụng tiền viện trợ, ông đã lèo lái đất nước đưa đến bến bờ của sự thanh
bình thịnh vượng và nhân quyền.
Qua chương
trình CIP ( Comercial Import Program), mỗi năm ông nhận viện trợ kinh tế của
Hoa Kỳ là 322 triệu năm 1955, và nhờ việc sử dụng hiệu quả và chính xác, viện
trợ Mỹ đã tăng lên 450 triệu Mỹ Kim sau đó.
Với sự trợ giúp này, ông lại
nhanh chóng biến Miền Nam thành một hòn ngọc viễn đông trong một thời gian kỷ lục
là ba năm, đến nỗi tổng thống Eishenhower đã đón ông với 21 phát súng đại bác.
Xin được cụ thể
hóa vài thành tựu nổi bật về kinh tế của ông như sau:
- Toàn bộ hệ thống giao
thông thủy bộ và đường xe lửa xuyên Việt được tái thiết lại, phục vụ nhu cầu
thương mại và sản xuất và nông nghiệp.
- Chương trình
cải cách ruộng đất và khuyến nông đã biến những thửa ruộng và đồn điền bỏ hoang
thành những cánh đồng phì nhiêu và đồn điền trù phú, làm đem lại số gạo và cao
su xuất cảng tăng vọt.
Đơn cử là chỉ mới năm 1957
mà số gạo sản xuất là 3 triệu tấn, chăn nuôi heo gà vịt phát triễn mạnh và đã
xuất cảng được một số lượng đáng kể hàng năm.
- Điều quan trọng
đáng nói là dù Miền Nam căn bản là một quốc gia nông nghiệp, ông vẫn quyết tâm
biến Miền Nam trở thành một quốc gia kỹ nghệ. Giai đoạn này chúng ta thấy Miền
Nam đã có những nhà máy ván ép, nhà máy giấy, nhà máy dệt, nhà máy xà bông, viện
bào chế dược phẩm v.v.
TT Ngô Đình Diệm là con
người thấy xa trông rộng và rất chu đáo trong tất cả mọi kế hoạch phát triễn quốc
gia. Chương trình mở mang và nâng cao chất lượng giáo dục song song với phát
triễn kinh tế là một dự án đồng bộ và hoàn chỉnh nhằm chuẩn bị tài nguyên con
người để thực hiện việc kỹ nghệ hóa Miền Nam.
Các trường đại
học và các trường dạy nghề đào tạo công nhân và chuyên viên kỹ thuật ở mọi mọi
lãnh vực từ hành chánh đến khoa học đến kỹ thuật để có thể đáp ứng nhu cầu kỹ
nghệ hóa đất nước.
Trung tâm nguyên tử Đà Lạt
và đập Đa Nhim cộng với 2 kế hoạch ngũ niên 1957 đến 1961, 1962-1967 và chương
trình đẩy mạnh mở mang giáo dục là một bằng chứng về một kế hoạch phát triễn rất
hợp lý và đồng bộ của tổng thống để có đủ tài nguyên vật chất và tài nguyên con
người cho một quốc gia kỹ nghệ.
Nếu tổng thống
còn sống, thì chắn chắn Miền Nam còn tiến xa hơn Nam Hàn gấp bội, một Nhật Bản
thứ hai cũng không phải là điều nói quá, vì ông và Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, cụ
Phan Bội Châu là người đã sống ở Nhật hiểu biết về Nhật.
Tuy không tin tưởng và
cũng không hợp tác với chính phủ Nhật, nhưng ông rất ngưỡng mộ thể chế chính trị,
sự phát triễn kinh tế khoa học của Nhật. Khuôn mẫu chính trị và sự tiến bộ của
Nhật Bản là điều TT Ngô Đình Diệm muốn Việt Nam đạt được.
4/ Quân sự và nội
chính:
Ông hết sức quan tâm đến vấn
đề nội chính và quốc phòng.
Để đối đầu với cộng sản, ông phân chia Miền Nam thành 4 vùng chiến thuật, không ngừng canh tân quân đội và Việt Nam hóa quân đội và đào tạo các chuyên viên hành chánh cao cấp của quốc gia.
Để đối đầu với cộng sản, ông phân chia Miền Nam thành 4 vùng chiến thuật, không ngừng canh tân quân đội và Việt Nam hóa quân đội và đào tạo các chuyên viên hành chánh cao cấp của quốc gia.
Ông hết sức chú
tâm đào tạo một thế hệ sĩ quan trẻ có tiêu chuẩn ngang với quốc tế để thay thế
hàng ngũ sĩ quan được Pháp đào tạo. Sự cải tổ sâu rộng và đầu tư hai trường
quân sự lớn hàng đầu Đông Nam Á và Học Viện Quốc Gia Hành Chánh là những
ví dụ cụ thể.
Học Viện Quốc Gia Hành Chánh:
Xuất thân là khôi nguyên
trường Hậu Bổ, tức trường dạy về chính trị luật pháp và hành chánh, Tổng Thống
Ngô Đình Diệm khi chấp chánh, ông đã hết sức coi trọng công việc nội chính quốc
gia.
Ông bắt tay cải
tổ trường QGHC mà trước đây đặt ở Đà Lạt và trực thuộc bộ Giáo Dục. 1954, ông
cho dời trường về Sài Gòn và đặt học viện này dưới sự đào tạo và giám sát của
Phủ Thủ Tướng sau đó thuộc phủ Tổng Thống, tức trực thuộc sư chăm sóc của ông.
Chương trình học của học
viện này do Michigan
State University (MSU) trợ giúp trong việc soạn giáo trình. Kho sách của
trường được coi là một trong những thư viện lớn nhất của Việt Nam Cộng hòa.
Sinh Viên cũng
được huấn luyện quân sự ở các trường quân sự chuyên nghiệp như trung tâm huấn
luyện Quang Trung, học chiến thuật ở rừng cao su Phú Thọ hay trung tâm Nhảy Dù
Hoàng Hoa Thám v.v..
Môn học chính của QGHC gồm
những kiến thức như soạn thảo công văn, kế toán thương mại, định chế chính trị,
luật hành chánh và cả quân sự.
Tùy theo bằng cấp
tốt nghiệp là tham sư, đốc sự hay giám sự, các chuyên viên hành chánh cao cấp
này sẽ về làm việc tại các bộ như Bộ Nội vụ hoặc cơ quan hành chánh địa phương.
Giám sự được bổ nhiệm ở
các phủ bộ chuyên môn khác như Bộ Tài chánh, Tổng Nha Kế Hoạch. Sau khi ra trường
thì chuyên viên được bổ dụng từ Phủ Thủ tướng, Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình báo
hay Tổng Nha Ngân Sách và các Bộ cấp quốc gia cho đến các ty, các sở ở địa
phương như phó tỉnh trưởng hoặc phó quận trưởng.
- Trường Võ Bị QGVN:
Tuy trường Võ Bị
Liên Quân Đà Lạt được thành lập năm 1950 nhưng đên năm 1959 dưới thời Tổng Thống
Ngô Đình Diệm mới thực sự có những cải tổ sâu rộng và huấn luyện theo tiêu chuẩn
quốc tế.
Năm 1961, TT Ngô Đình Diệm
cho xây dựng lại cơ sở đào tạo mới tại đồi 1515, ông đưa ra chương trình đào tạo
4 năm thay vì 3 năm như trước đây, nhưng vì những rối ren chính trị và ông bị
thảm sát, mãi đến năm 1966 chính phủ tiếp theo mới thực hiện được chương trình
này.
Trường VBQGVN
đào tạo sĩ quan chuyên nghiệp cho Không Quân, Hải Quân và Lục Quân.
- Liên Trường Võ Khoa Thủ
Đức năm 1955 đến 1961 đã cung cấp 2/3 số sĩ quan cho QLVNCH và khoảng trên 90%
các binh chủng như Thiết Giáp, Công Binh Pháo Binh Quân Nhu Quân Cụ truyền tin.
Giữa tháng 10 năm 1961 ông lại tiếp tục cải tổ tách các trường đào tạo chuyên
môn thành các trường riêng chỉ còn giữ lại Bộ Binh và Thiết Giáp là chính.
- Phân chia các
vùng chiến thuật: 42 tỉnh Miền Nam được chia làm 4 vùng chiến thuật với trách
nhiệm bảo vệ các vùng chiến thuật thành Quân Đoàn. Quân Đoàn 1 bản doanh tại Đà
Nẵng, QĐ II tại Pleiku, Quân Đoàn III tại Biên Hòa, QĐ IV tại Cần Thơ.
Để thấy được thành công
trong lãnh vực quân sự, chống trả lại các cuộc tấn công quân sự của khối cộng sản
trong giai đoạn của tổng thống Ngô Đình Diệm, cần đánh giá sức mạnh quân sự của
đối phương.
Giai đoạn này đặc
biệt là bắt đầu vào khoảng năm 1961, 1962 cộng sản gia tăng chiến tranh quân sự
và gia tăng các hoạt động khủng bố, để cố chiếm lấy nữa nước còn lại nhằm phục
vụ cho ý thức hệ cộng sản và gấp rút thỏa mãn ý đồ Hán Hóa Việt Nam của Trung Cộng.
Dẫn chứng: trong giai đoạn
chiến tranh từ năm 1954 đến 1975, luôn luôn có mặt của cán bộ Trung Cộng và
ngay cả của tất cả các nước công sản khác như Tiệp Khắc , Cuba v.v tại Hà Nội. Có lúc con số lính Trung Cộng lên đến
300 ngàn.
Hồ Chí Minh và
những đảng viên trung ương đã đến tiếp kiến Chu Ân Lại ở Nam Ninh tháng 7 năm
1957 để cùng hợp tác soạn thảo kế hoạch cài cán bộ cộng sản nhằm phục vụ mưu đồ
thôn tính Miền Nam.
Kế hoạch này gồm 2 chiến
lược chính đó là làm suy yếu chính quyền VNCH bằng các âm mưu gây bất ổn chính
trị xã hội, hai là tấn công quân sự và tấn công khủng bố. Tất cả các kế hoạch
này lấy tinh thần ái quốc chống ngoại xâm và bịa đặt vấn đề đàn áp Phật Giáo để
lừa phỉnh lòng yêu nước và đánh lận tín ngưỡng của người dân VN.
Sự hiện diện
trong chiến tranh của bọn cộng sản Bắc Việt chỉ là bề ngoài, bên trong chính là
Trung Cộng vẽ kế hoạch từng giai đoạn và cung cấp vũ khí tiền bạc.
Như vậy chính phủ Ngô Đình
Diệm đang đối đầu với cả một khối cộng sản lúc đó đang vô cùng mạnh, và nguy hiểm
hơn nữa là khi chính quyền Kennedy đồng ý trung lập Lào, tạo đường giao thông
cho Hà Nội liên tiếp đưa quân vào Miền Nam và làm gia tăng các trận tấn công
quân sự của Hà Nội vào Miền Nam.
Tuy phải đương
đầu với muôn vàn khó khăn như trên, nhưng Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã giữ cho hậu
phương Miền Nam luôn thanh bình ấm no, người dân đi lại an toàn, không có nạn đắp
mô xe đò đánh du kích v.v..
5/ Ngoại giao:
Với sự thành công vượt bực
về chính trị kinh tế và khống chế được cộng sản, ổn định Miền Nam một cách
nhanh chóng, ông đã được rất nhiều các nguyên thủ quốc gia cũng như các nhân vật
chính trị nỗi tiếng trên thế giới ca ngợi, chẳng hạn tổng thống Lyndon Johson
vào năm 1955 và 1961 đã ca ngợi tổng thống Ngô Đình Diệm là Churchill của Châu
Á, Tổng Thống Tưởng Giới Thạch nói rằng 100 năm nữa Việt Nam cũng chưa tìm được
người tài đức như TT Ngô Đình Diệm.
Tổng Thống
Eisenhower gọi ông là Miracle man, ông được giải thưởng Magsaysay và đã tặng số
tiền này cho Đức Đạt Lai Lạt Ma.
Trước uy tín cá nhân và những
thành tựu vượt bực về kinh tế quân sự, Miền Nam đã được trên 80 quốc gia công
nhận, rất nhiều nước mời tổng thống Ngô Đình Diệm công du, và vinh dự nhất là
chuyến viếng thăm Hoa Kỳ và New York của ông đã được đích thân TT Eisenhower ra
tận máy bay đón và chào mừng bằng 21 phát súng đại bác
Cho đến bây giờ,
thật hiếm hoi có một vị nguyên thủ quốc gia được Hoa Kỳ đón tiếp với thủ tục
cao quý nhất như vậy. Đó là niềm vinh dự cho cá nhân TT Ngô Đình Diệm và cũng
là niềm vinh dự cho chính thể VNCH và cho chính chúng ta hôm nay.
6/ Thành công về mặt an ninh tình báo:
Theo cuốn hồi ký của Đại
Tướng Việt Cộng Văn Tiến Dũng, số cán bộ cộng sản gài tại Miền Nam là 60 ngàn
tên, sau 3 năm dưới sự cầm quyền của chính phủ TT Ngô Đình Diệm con số này chỉ
còn lại 5 ngàn. Tức là trong ba năm chính phủ đã tận diệt trên 90% số cán bộ nằm
trong màng lưới gián điệp.
Đây là sự tự
thú mà chính cộng sản sau 1975 đã đưa ra, như vậy thành công vô cùng to lớn này
là do ai? công lao này là do ai? Nếu không phải là của TT Ngô Đình Diệm và các
ông như Phan Quang Đông, Ngô Đình Cẩn, Dương Văn Hiếu và toàn bộ hệ thống tình
báo công an mật vụ của Đệ Nhất Cộng Hòa.
Hệ thống tình báo này đã bắt
và loại trừ được 55 ngàn tên cán bộ cộng sản qua chiến dịch tình báo xâm nhập
chiêu hồi và tố cộng, bẽ gãy âm mưu thâm nhập vào hệ thống quân sự dân sự và
chính quyền VNCH.
Hệ thống tình
báo thời kỳ tổng thống Ngô Đình Diệm là một hệ thống vô cùng hữu hiệu và có
công lớn với đất nước, đã phá vỡ một hệ thống tình báo cộng sản tinh vi và dày
đặc, thế nhưng người ta vẫn lập đi lập lại như một thành ngữ: hệ thống mật vụ
Nhu Diệm đàn áp Phật Giáo trong lúc kết luận điều tra của Liên Hiệp Quốc là
hoàn toàn không tìm thấy bằng chứng đàn áp Phật Giáo của chính quyền Tổng Thống
Ngô Đình Diệm.
Liệu chúng ta có thể chấp
nhận sự thật bị đánh tráo này không, hoặc để cho những kẻ cuồng tín tiếp tục vu
khống?
Để đánh giá
thành công này, chúng ta phải xem xét đến cách cài người vô cùng tinh vi của khối
cộng sản có tên gọi là Lucy.
Xin được điểm qua kế hoạch
Lucy của Xô Viết để chúng ta thấy rằng loại trừ được hệ thống cộng sản nằm vùng
không phải là một công việc dễ dàng mà là một công việc muôn vàn khó khăn mà hệ
thống công an mật vụ của chính phủ Ngô Đình Diêm và ông Ngô Đình Cẩn đã đạt được.
Kế hoạch Lucy
là gì? Đó là kế hoạch mà sau cách mạng Nga 1917, Nga đã chỉ thị cho các cán bộ
cộng sản trẻ của mình ở lại trong hệ thống quân đội và chính quyền Đức dù lúc
đó chính quyền Đức bị bại trận và số lính tình nguyện giải ngũ rất nhiều, chỉ
còn lại khoảng 100 ngàn.
Các cán bộ trẻ này vẫn sống
một đời bình thường hoàn toàn không hoạt động tình báo gì cả. Nhóm này hiện diện
trong các lãnh vực quân sự, dân sự và trong các ngành quan trọng của chính quyền.
Hai mươi năm
sau, khi thế chiến II bùng nổ 1939, các cán bộ cộng sản này trở thành những sĩ
quan cao cấp trong hàng ngũ quân đội Đức, tức là trở thành những tên cán bộ điệp
viên cộng sản cho Nga ngay trong chính quyền nổi tiếng sắt máu tàn bạo và tinh
vi của Hitler.
Những tên sĩ quan cao cấp
này của Đức đã cung cấp toàn bộ tin tức tình báo kế hoạch hành quân cho Nga và
đã góp phần tạo nên chiến thắng cho Liên Xô trong trận đệ nhị thế chiến.
Chính phủ Nhật
Hoàng cũng bị bại trận trước Nga cũng trong môt tình huống tương tự khi một điệp
viên cộng sản Đức trở thành một chuyên viên tín cẩn của chính quyền quốc xã
Hitler làm việc cho tòa Đại sứ Đức tại Tokyo.
Điểm qua kế hoạch cài người
Lucy để chúng ta thấy rằng việc loại trừ khoảng 55 ngàn điệp viên cộng sản tại
Miền Nam mà Văn Tiến Dũng đã thừa nhận là một kỳ công của hệ thống “ Mật vụ Nhu
Diệm” của ông Phan Quang Đông, Ngô Đình Cẩn và Đoàn Đặc Nhiệm Miền Trung.
Trở lại vấn đề
cán bộ tình báo nằm vùng tại Miền Nam Việt Nam: Trong lúc chính quyền của TT
Ngô Đình Diệm là một chính quyền mới khai sinh sau ngày chia đôi đất nước, chỉ
thật sự có quyền lực và được Hoa Kỳ viện trợ đáng kể sau khi dẹp loạn Bình
Xuyên Bảy Viễn và Nguyễn Văn Hinh, tức là 11 tháng sau khi về nước chấp chính,
thì chính quyền CSVN lúc đó đã hoạt động được 24 năm, có ngân sách điều hành dồi
dào và rất ổn định từ khối cộng sản quốc tế đặc biệt là Trung Cộng, nên đã tạo
được một màng lưới gián điệp nguy hiểm nằm sâu và nằm sẳn trong tất cả các cơ
quan dân sự, chính quyền, quân đội và tôn giáo của Miền Nam.
Ngoài ra còn có thêm số
cán bộ cộng sản từ Bắc được gởi vào Miền Nam qua làn sóng di cư 1954. Điều này giải thích lý do tại
sao điệp viên cộng sản đã trở thành các đảng viên cao cấp trong các đảng phái
quốc gia, trở thành các sĩ quan cao cấp, trở thành tướng lãnh, trở thành các
nhà tu, nhà báo, các chính trị gia đối lập và thậm chí len lõi vào cả Dinh Độc
Lập.
Đó cũng giải
thích lý do tại sao có quá nhiều tên cán bộ cộng sản giả dạng quốc gia mà chỉ
sau 1975 dân chúng mới biết, chẳng hạn như Phạm Xuân Ẩn, Huỳnh văn Trọng, Vũ Ngọc
Nhạ, ni sư Huỳnh Liên, Thích Trí Quang
v.v
Cuối 1956, khi thấy nền
kinh tế và chính trị Miền Nam càng ngày càng vững mạnh, cộng sản Hà Nội và Bắc
Kinh cùng với Liên Xô đổi chiến lược tấn công, đó là bên cạnh các cuộc tấn công
quân sự, tổ chức chiến tranh khủng bố ám sát bắt cóc trên toàn Miền Nam gây
hoang mang lo sợ trong dân chúng.
Đồng thời năm
1960, chúng đẻ ra tổ chức gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam được lãnh đạo bởi
những tên cộng sàn gộc pha trộn các trí thức thiên tả của Miền Nam, chẳng hạn
Nguyễn Hữu Thọ, Võ Chí Công, Nguyễn Thị Định, Huỳnh Tấn Phát, Dương Quỳnh Hoa,
Trương Như Tảng, rêu rao rằng đây là tổ chức do dân chúng Miền Nam nổi dậy chống
chính quyền.
Thủ đoạn chính trị này đã
lừa bịp một số trí thức Miền Nam như Trương Như Tảng, Dương Quỳnh Hoa, Đoàn văn
Toại v.v hăng say hoạt động cho chúng, đồng thời đã lừa bịp được dư luận thế giới
rằng MTGPMN không phải là tổ chức cộng sản mà chỉ là do dân Miền Nam nổi dậy.
Nói chung,
chính phủ VNCH không phải chỉ đối đầu với cộng sản Miền Bắc, mà chính là đối đầu
với Bắc Kinh và Nga, đòi hỏi chính phủ phải thấy xa trông rộng và bắt buộc phải
giới hạn một số quyền tự do bình thường để khống chế số Việt Cộng nằm vùng ngụy
trang trong các tổ chức báo chí, tôn giáo, học sinh sinh viên, tôn giáo v.v. Trong
đó đòi hỏi chính quyền phải chọn người tài giỏi tâm đầu ý hợp trong quan điểm
và đường lối chống cộng.
Số kết luận rằng chính phủ
TT Ngô Đình Diệm độc tài, thì họ là những người đã nhắm mắt bịt tai để không thấy
rằng, dưới thời chính phủ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm người dân có được các
quyền căn bản về tự do dân chủ, đặc biệt là quyền tự do biểu tình tự thiêu chống
đối thóa mạ chính phủ, tuy vậy chính phủ vẫn thừa khả năng vô hiệu hóa mạng lưới
tình báo cộng sản. Đó là một điểm son khi điểm lại lịch sử.
Hãy nghe cộng sản
ghi nhận về hệ thống an ninh tình báo mật vụ Nhu Diệm như sau: “Từ 1957 đến
1958, tình thế dần dần đổi thay. Kẻ thù liên tục phá hoại sự thi hành hiệp định
Geneva, củng cố và tăng cường một cách tích cực ngành an ninh quân sự và bộ máy
hành chánh, từ trung ương xuống đến tận thôn xóm, ám sát tàn bạo cán bộ và thật
sự đã phá hủy đảng ta một cách hữu hiệu…”
Chúng ta phải công bằng rằng
tất cả những thành công về giáo dục, y tế, kinh tế, quân sự, ngoại giao, nội
chính, an ninh tình báo của TT Ngô Đình Diệm trong hoàn cảnh đất nước phải
đương đầu với cộng sản Việt Nam, chống Nga, chống Bắc Kinh, là vượt quá sự mong
đợi của người dân Việt Nam, vượt quá sự tiên liệu của Hoa Kỳ và các quốc gia
khác.
Uy tín của Miền
Nam và của cá nhân của Tổng Thống Diệm lên cao đến mức TT Eisenhower, không những
là vĩ nhân của Hoa Kỳ mà còn là vĩ nhân của thế giới, đã thân chinh đón ông tận
cửa máy bay với thảm đỏ trải dài từ chân cầu thang và 21 phát súng đại bác chào
mừng, là một chứng minh rõ ràng nhất mà không ai có thể phản bác về uy tín và
thành công quá lớn của Tổng Thống Diệm.
Tóm lại, những người cho rằng
TT Ngô Đình Diệm độc tài đàn áp Phật Giáo gia đình trị, hầu như họ đã tránh né
việc mà họ phải làm để thuyết phục dư luận rằng họ đúng, đó là họ phải so sánh
tình trạng đất nước trước khi ông về, với một đất nước sau đó với 9 năm đất nước
dưới quyền lãnh đạo của ông, rồi sự suy yếu bệ rạc xảy ra ngay sau khi đất nước
không còn bóng dáng ông nữa.
Những kẻ đánh
giá sự nghiệp của một vị lãnh đạo quốc gia mà chỉ đưa ra tình hình bất ổn chính
trị của đất nước do Phong Trào Phật Giáo Tranh Đấu gây ra vài tháng trước khi
ông mất là một việc làm gian trá đánh lận con đen, tự làm giảm giá trị của mình
và không ai có thể chấp nhận được. Vì vậy sự kết luận rằng Tổng Thống Ngô Đình
Diệm là người không có tài tham quyền cố vị là những lời nói vô giá trị mà
không lịch sử nào nhìn nhận.
No comments:
Post a Comment