Nhạc
Nguyễn Văn Đông
Tác giả Lê Hữu
copy từ
Tôn L. Châu's email
Hôm ấy,
tôi còn nhớ, một chiều hè năm 1969, chúng tôi ngồi ở một quán nước quen dọc bờ
biển Nha Trang. Bên cạnh tôi là H., người bạn học cũ. Ðã lâu lắm chúng tôi mới gặp
lại nhau kể từ ngày rời xa mái trường cũ ở một thị trấn miền cao nguyên đất đỏ.
H. cho biết anh sắp sửa nhập ngũ, thì giờ rảnh rỗi như thế này sẽ chẳng còn
được bao lâu nữa. Anh ta có người yêu ở thành phố biển này. Tôi thì vẫn lang
thang trên sân trường đại học, tấm giấy chứng chỉ hoãn dịch trong tay vẫn còn
hiệu lực...
Trên mặt bàn là
những chai bia đã cạn và câu chuyện cũng đến lúc cạn đề tài. Chúng tôi ngồi im
lặng, cùng phóng tầm mắt nhìn ra vùng biển bao la trước mặt, chờ mặt trời lặn
để ngắm cảnh hoàng hôn trên bãi biển trong lúc tiếng nhạc bập bùng vọng ra từ
một góc quầy.
Người đi giúp
núi sông
hàng hàng lớp lớp chưa về, hàng hàng nối tiếp câu thề giành lấy quê hương...
hàng hàng lớp lớp chưa về, hàng hàng nối tiếp câu thề giành lấy quê hương...
"Bài gì
vậy?" H. quay sang tôi, hỏi.
"‘Hàng hàng lớp lớp'," tôi trả lời.
"Tên gì lạ vậy?"
"Gọi tắt là vậy," tôi cười, "tên đầy đủ là ‘Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp'."
H. lặng thinh, có vẻ chăm chú lắng nghe. Lời ca tiếng nhạc khi réo rắt, khi trầm bổng...
"‘Hàng hàng lớp lớp'," tôi trả lời.
"Tên gì lạ vậy?"
"Gọi tắt là vậy," tôi cười, "tên đầy đủ là ‘Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp'."
H. lặng thinh, có vẻ chăm chú lắng nghe. Lời ca tiếng nhạc khi réo rắt, khi trầm bổng...
Còn đây đêm
cuối cùng
nhìn em muốn nói chuyện người Kinh Kha
ngại khơi nước mắt, nhạt nhòa môi em...
nhìn em muốn nói chuyện người Kinh Kha
ngại khơi nước mắt, nhạt nhòa môi em...
"Giọng Hà
Thanh phải không?" H. lại hỏi. "Còn giọng nam?"
"Hùng Cường."
"Thiệt sao?" giọng hỏi thoáng chút ngờ vực.
Tôi hiểu, anh bạn tôi đâu biết rằng, ngoài những bài "tủ" như "Vọng ngày xanh", "Ông lái đò", "Sơn nữ ca"..., ca sĩ Hùng Cường-một nghệ sĩ cải lương khá nổi tiếng thời ấy - với chất giọng ténor khoẻ khoắn, còn hát rất "tới" một ít bài tân nhạc khác nữa, đặc biệt là những bài của Nguyễn Văn Ðông.
Bài hát chúng tôi đang nghe là của Nguyễn Văn Ðông.
Anh bạn tôi đã nương theo câu hát ấy mà đi vào cuộc chiến. Anh đã nhập vào "hàng hàng lớp lớp" những đoàn người "nối tiếp câu thề giành lấy quê hương".
Mùa hè năm sau, tôi cũng "lên đường nhập ngũ tòng quân", nghĩa là chỉ sau anh bạn H. một năm. Bạn bè tôi kẻ trước người sau lục tục vào lính. Chiến cuộc ngày càng leo thang, càng trở nên khốc liệt...
H., anh bạn cùng ngồi với tôi buổi chiều ấy, cùng nghe với tôi bài nhạc ấy, cùng ngắm nhìn hoàng hôn trên bãi biển ấy, đã không còn nữa. Anh đã nằm sâu dưới lòng đất. H. đã hy sinh trong chiến trận ít năm sau đó, như biết bao người lính khác, như hơn một nửa bạn bè tôi đã nằm xuống trên khắp các mặt trận trong cuộc chiến nghiệt ngã ấy. Chiến tranh như con quái vật khổng lổ đã nuốt chửng bao nhiêu bè bạn tôi, anh em tôi.
Ðã nhiều năm, nhiều năm trôi qua, hình ảnh một chiều nào biển xanh cát trắng và những câu hát của Nguyễn Văn Ðông giữa biển trời mênh mông vẫn còn đậm nét trong ký ức tôi, mặc cho những lớp sóng của thời gian như từng đợt sóng biển cứ "hàng hàng lớp lớp" xô nhau, xô nhau tràn mãi vào bờ, rồi lại rút xuống trong con nước thủy triều của buổi hoàng hôn...
Người lính Nguyễn Văn Ðông
Anh bạn tôi khi còn sống đã thích bài nhạc ấy vì hai lẽ: thứ nhất, đấy là một bài nhạc lính khá hay, gợi nhiều cảm xúc; thứ hai, nội dung bài hát khá "hợp tình hợp cảnh" đối với anh ta vào lúc ấy.
Chỉ nghe cái tựa thôi, "Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp", người ta cũng biết được rằng đấy là bài tình ca viết về lính, viết cho lính.
Người đi giúp núi sông, hàng hàng lớp lớp chưa về... Không chỉ là "chưa về", trong số "hàng hàng lớp lớp" những "người đi giúp núi sông" ấy, đã có biết bao người đi không về, không bao giờ về lại nữa. Trong số những người đi mãi không về ấy có anh bạn của tôi, người "yêu" câu hát ấy của Nguyễn Văn Ðông, trong lúc tôi và những người lính khác, những chiến hữu, những bè bạn của anh, đã may mắn hơn anh, đã sống sót trở về sau cuộc chiến; và hơn thế nữa, đã được định cư trên miền đất tự do này để nhớ về những đồng đội cũ đã hy sinh hay còn ở lại trong nước, kéo dài cuộc sống lây lất, âm thầm của những người lính già trong buổi hoàng hôn của đời người.
Trong số những người lính vẫn còn ở lại trong nước ấy có người lính Nguyễn Văn Ðông, tác giả "Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp". Ông hiện sống ởSaigon , và hầu như không còn viết nhạc nữa. Ðiều
này không có gì lạ, đối với một nhạc sĩ vốn sở trường và khá nổi tiếng về những
bài "nhạc lính". Không chỉ vì chiến tranh đã đi qua, tình trạng đất
nước hiện nay chắc không phải là môi trường thuận lợi giúp ông tìm lại được
nguồn cảm hứng để tiếp tục sáng tác.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông sinh trưởng tạiSaigon (nguyên quán thuộc tỉnh Tây Ninh). Ngay từ thời niên thiếu, năm 14 tuổi, ông
đã có cơ hội học hỏi về âm nhạc từ các giáo sư người Pháp trong thời gian 5 năm
theo học tại trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Ðây cũng là nơi ông sáng tác ca
khúc đầu tay, "Thiếu Sinh Quân Hành Khúc", năm 16 tuổi, được
trường chính thức công nhận và sử dụng làm bài "đoàn ca" trong các
sinh hoạt tập thể. Ông là thành viên của dàn quân nhạc gồm trên 40 "nhạc
sĩ" thiếu niên, từng thi thố tài năng qua nhiều buổi hòa nhạc do một nhạc
trưởng người Pháp điều khiển trong các lễ duyệt binh long trọng, đồng thời cũng
là thành viên ban nhạc nhẹ của trường, sử dụng thuần thục nhiều nhạc cụ như
kèn, trống, mandolin, guitare hawaïenne...
Ngoài sự nghiệp sáng tác, những nét chính về hoạt động âm nhạc có thể kể ra được của chàng nghệ sĩ "tay súng, tay đàn" Nguyễn Văn Ðông:
Từ năm 1958, là Trưởng Ðoàn Văn Nghệ Vì Dân (với sự góp mặt của các nghệ sĩ và ca nhạc sĩ tên tuổi, như Kiều Hạnh, Kim Cương, Khánh Ngọc, Minh Diệu, Vân Hùng, Ba Vân, Bảy Xê, Trần Văn Trạch, Quách Đàm, Mạnh Phát, Minh Kỳ, Thu Hồ, Hoài Linh, vũ sư Trịnh Toàn...).
Cũng từ năm 1958, là Trưởng Ban Nhạc Tiếng Thời Gian, đài phát thanh Saigon, quy tụ các ca nhạc sĩ quen thuộc thuở ấy như Lệ Thanh, Khánh Ngọc, Tâm Vấn, Minh Diệu, Hà Thanh, Anh Ngọc, Quách Đàm, Mạnh Phát, Thu Hồ, Trần Văn Trạch... (Từ năm 1962, được tăng cường thêm các ca sĩ Thái Thanh, Thanh Thúy, Minh Tuyết, Duy Khánh, Nhật Trường, Thanh Vũ, Hùng Cường... và ban nhạc Y Vân).
Từ năm 1960 đến 1975, cùng người bạn là Huỳnh Văn Tứ, một nhà doanh nghiệp ở Saigon, đứng ra thành lập các hãng dĩa và băng nhạc Continental và Sơn Ca (được sự cộng tác của các nhạc sĩ tân và cổ nhạc Nghiêm Phú Phi, Văn Phụng, Lê Văn Thiện, Y Vân, Văn Vỹ, Năm Cơ, Hai Thơm...), gửi đến giới yêu nhạc nhiều chương trình âm nhạc chọn lọc. Ðây cũng là trung tâm băng và dĩa nhạc đi tiên phong trong việc thực hiện một số album nhạc cho từng ca sĩ. Một số ca sĩ "thành danh" trong làng ca nhạc trước năm 1975 như Thanh Tuyền, Giao Linh, Phương Dung, Hà Thanh... nhờ vào sự hướng dẫn và giới thiệu của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, Giám đốc Nghệ thuật của các hãng dĩa này.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông còn sử dụng các bút danh Vì Dân, Phượng Linh, Phương Hà... cho các thể loại và chủ đề nhạc khác nhau. Ít người được biết, ngoài những sáng tác về tân nhạc, ông còn viết nhạc nền cho trên 50 vở tuồng cải lương thuộc loại kinh điển ở miền Nam như "Mưa rừng", "San hậu", "Nửa đời hương phấn", "Sân khấu về khuya", "Tiếng hạc trong trăng"... và hàng trăm chương trình "tân cổ giao duyên", một hình thức "phối hợp nghệ thuật" giữa tân và cổ nhạc khá phổ biến trong đại chúng vào thời ấy, cũng với các bút danh trên.
Sau những "bước nhẹ tênh" ấy là cánh cửa mở rộng cho "chàng trai trẻ độc thân" Nguyễn Văn Ðông đặt những bước chân đầu tiên lên "đoạn đường chiến binh", để từ đó dấn thân vào cuộc sống mới đầy hứng thú, đầy sôi động và cũng đầy ý nghĩa trong những năm dài quê hương chìm trong khói lửa chiến tranh. Chàng lính trẻ ấy từng phục vụ ở các đơn vị tác chiến, từng đóng quân tại các vị trí được xem là "điểm nóng" của các cuộc giao tranh như chiến khu Ðồng Tháp Mười, vùng Tam Giác Sắt..., từng tham dự những trận chiến ác liệt tại các địa danh Ấp Bắc, Kinh 12 và tuyến lửa Thông Bình, Cái Cái (Tân Thành)..., từng được ân thưởng nhiều huy chương về các chiến tích, trong đó có "bảo quốc huân chương" là huân chương cao quý nhất của quân lực Việt Nam Cộng Hòa.
Hầu như khắp bốn vùng chiến thuật, nơi đâu cũng in hằn dấu chân người lính Nguyễn Văn Ðông (đúng như "Mấy dặm sơn khê", tên một bài nhạc khá nổi tiếng của ông). Ông đã cầm súng chiến đấu vì yêu quê hương này, vì yêu dân tộc này.
"Hùng Cường."
"Thiệt sao?" giọng hỏi thoáng chút ngờ vực.
Tôi hiểu, anh bạn tôi đâu biết rằng, ngoài những bài "tủ" như "Vọng ngày xanh", "Ông lái đò", "Sơn nữ ca"..., ca sĩ Hùng Cường-một nghệ sĩ cải lương khá nổi tiếng thời ấy - với chất giọng ténor khoẻ khoắn, còn hát rất "tới" một ít bài tân nhạc khác nữa, đặc biệt là những bài của Nguyễn Văn Ðông.
Bài hát chúng tôi đang nghe là của Nguyễn Văn Ðông.
Anh bạn tôi đã nương theo câu hát ấy mà đi vào cuộc chiến. Anh đã nhập vào "hàng hàng lớp lớp" những đoàn người "nối tiếp câu thề giành lấy quê hương".
Mùa hè năm sau, tôi cũng "lên đường nhập ngũ tòng quân", nghĩa là chỉ sau anh bạn H. một năm. Bạn bè tôi kẻ trước người sau lục tục vào lính. Chiến cuộc ngày càng leo thang, càng trở nên khốc liệt...
H., anh bạn cùng ngồi với tôi buổi chiều ấy, cùng nghe với tôi bài nhạc ấy, cùng ngắm nhìn hoàng hôn trên bãi biển ấy, đã không còn nữa. Anh đã nằm sâu dưới lòng đất. H. đã hy sinh trong chiến trận ít năm sau đó, như biết bao người lính khác, như hơn một nửa bạn bè tôi đã nằm xuống trên khắp các mặt trận trong cuộc chiến nghiệt ngã ấy. Chiến tranh như con quái vật khổng lổ đã nuốt chửng bao nhiêu bè bạn tôi, anh em tôi.
Ðã nhiều năm, nhiều năm trôi qua, hình ảnh một chiều nào biển xanh cát trắng và những câu hát của Nguyễn Văn Ðông giữa biển trời mênh mông vẫn còn đậm nét trong ký ức tôi, mặc cho những lớp sóng của thời gian như từng đợt sóng biển cứ "hàng hàng lớp lớp" xô nhau, xô nhau tràn mãi vào bờ, rồi lại rút xuống trong con nước thủy triều của buổi hoàng hôn...
Người lính Nguyễn Văn Ðông
Anh bạn tôi khi còn sống đã thích bài nhạc ấy vì hai lẽ: thứ nhất, đấy là một bài nhạc lính khá hay, gợi nhiều cảm xúc; thứ hai, nội dung bài hát khá "hợp tình hợp cảnh" đối với anh ta vào lúc ấy.
Chỉ nghe cái tựa thôi, "Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp", người ta cũng biết được rằng đấy là bài tình ca viết về lính, viết cho lính.
Người đi giúp núi sông, hàng hàng lớp lớp chưa về... Không chỉ là "chưa về", trong số "hàng hàng lớp lớp" những "người đi giúp núi sông" ấy, đã có biết bao người đi không về, không bao giờ về lại nữa. Trong số những người đi mãi không về ấy có anh bạn của tôi, người "yêu" câu hát ấy của Nguyễn Văn Ðông, trong lúc tôi và những người lính khác, những chiến hữu, những bè bạn của anh, đã may mắn hơn anh, đã sống sót trở về sau cuộc chiến; và hơn thế nữa, đã được định cư trên miền đất tự do này để nhớ về những đồng đội cũ đã hy sinh hay còn ở lại trong nước, kéo dài cuộc sống lây lất, âm thầm của những người lính già trong buổi hoàng hôn của đời người.
Trong số những người lính vẫn còn ở lại trong nước ấy có người lính Nguyễn Văn Ðông, tác giả "Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp". Ông hiện sống ở
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông sinh trưởng tại
Ngoài sự nghiệp sáng tác, những nét chính về hoạt động âm nhạc có thể kể ra được của chàng nghệ sĩ "tay súng, tay đàn" Nguyễn Văn Ðông:
Từ năm 1958, là Trưởng Ðoàn Văn Nghệ Vì Dân (với sự góp mặt của các nghệ sĩ và ca nhạc sĩ tên tuổi, như Kiều Hạnh, Kim Cương, Khánh Ngọc, Minh Diệu, Vân Hùng, Ba Vân, Bảy Xê, Trần Văn Trạch, Quách Đàm, Mạnh Phát, Minh Kỳ, Thu Hồ, Hoài Linh, vũ sư Trịnh Toàn...).
Cũng từ năm 1958, là Trưởng Ban Nhạc Tiếng Thời Gian, đài phát thanh Saigon, quy tụ các ca nhạc sĩ quen thuộc thuở ấy như Lệ Thanh, Khánh Ngọc, Tâm Vấn, Minh Diệu, Hà Thanh, Anh Ngọc, Quách Đàm, Mạnh Phát, Thu Hồ, Trần Văn Trạch... (Từ năm 1962, được tăng cường thêm các ca sĩ Thái Thanh, Thanh Thúy, Minh Tuyết, Duy Khánh, Nhật Trường, Thanh Vũ, Hùng Cường... và ban nhạc Y Vân).
Từ năm 1960 đến 1975, cùng người bạn là Huỳnh Văn Tứ, một nhà doanh nghiệp ở Saigon, đứng ra thành lập các hãng dĩa và băng nhạc Continental và Sơn Ca (được sự cộng tác của các nhạc sĩ tân và cổ nhạc Nghiêm Phú Phi, Văn Phụng, Lê Văn Thiện, Y Vân, Văn Vỹ, Năm Cơ, Hai Thơm...), gửi đến giới yêu nhạc nhiều chương trình âm nhạc chọn lọc. Ðây cũng là trung tâm băng và dĩa nhạc đi tiên phong trong việc thực hiện một số album nhạc cho từng ca sĩ. Một số ca sĩ "thành danh" trong làng ca nhạc trước năm 1975 như Thanh Tuyền, Giao Linh, Phương Dung, Hà Thanh... nhờ vào sự hướng dẫn và giới thiệu của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, Giám đốc Nghệ thuật của các hãng dĩa này.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông còn sử dụng các bút danh Vì Dân, Phượng Linh, Phương Hà... cho các thể loại và chủ đề nhạc khác nhau. Ít người được biết, ngoài những sáng tác về tân nhạc, ông còn viết nhạc nền cho trên 50 vở tuồng cải lương thuộc loại kinh điển ở miền Nam như "Mưa rừng", "San hậu", "Nửa đời hương phấn", "Sân khấu về khuya", "Tiếng hạc trong trăng"... và hàng trăm chương trình "tân cổ giao duyên", một hình thức "phối hợp nghệ thuật" giữa tân và cổ nhạc khá phổ biến trong đại chúng vào thời ấy, cũng với các bút danh trên.
Sau những "bước nhẹ tênh" ấy là cánh cửa mở rộng cho "chàng trai trẻ độc thân" Nguyễn Văn Ðông đặt những bước chân đầu tiên lên "đoạn đường chiến binh", để từ đó dấn thân vào cuộc sống mới đầy hứng thú, đầy sôi động và cũng đầy ý nghĩa trong những năm dài quê hương chìm trong khói lửa chiến tranh. Chàng lính trẻ ấy từng phục vụ ở các đơn vị tác chiến, từng đóng quân tại các vị trí được xem là "điểm nóng" của các cuộc giao tranh như chiến khu Ðồng Tháp Mười, vùng Tam Giác Sắt..., từng tham dự những trận chiến ác liệt tại các địa danh Ấp Bắc, Kinh 12 và tuyến lửa Thông Bình, Cái Cái (Tân Thành)..., từng được ân thưởng nhiều huy chương về các chiến tích, trong đó có "bảo quốc huân chương" là huân chương cao quý nhất của quân lực Việt Nam Cộng Hòa.
Hầu như khắp bốn vùng chiến thuật, nơi đâu cũng in hằn dấu chân người lính Nguyễn Văn Ðông (đúng như "Mấy dặm sơn khê", tên một bài nhạc khá nổi tiếng của ông). Ông đã cầm súng chiến đấu vì yêu quê hương này, vì yêu dân tộc này.
Ông đã yêu đời
lính như yêu mảnh đất này, như yêu những đồng đội, như yêu người mình yêu...
Hình ảnh người lính chiến thể hiện qua dòng nhạc của ông xem ra cũng không khác
gì lắm với hình ảnh "người lính Nguyễn Văn Ðông", cũng "áo anh
mùi thuốc súng", cũng "ngược xuôi theo đường mây", cũng "tóc
tơi bời lộng gió bốn phương". (Ông không phục vụ ở Cục Tâm Lý Chiến như nhiều người vẫn lầm
tưởng)...
Mặc dầu không hề
"tơ vương khanh tướng" vì "người đi giúp nước nào màng danh
chi", nhưng do lòng "tận trung báo quốc" qua các thành tích
chiến đấu và phục vụ, ông cũng đã leo dần lên mãi những nấc thang binh nghiệp
với chức vụ sau cùng là sĩ quan tham mưu cao cấp Bộ Tổng Tham Mưu. Có lẽ Ðại tá
Trần Văn Trọng (nhạc sĩ
Anh Việt, tác giả "Bến cũ", "Thơ ngây"...) và ông được kể là những người
"lính" có cấp bậc cao nhất trong số các nhạc sĩ phục vụ trong quân
ngũ.
Sau "ngày tàn chiến cuộc" năm 1975, như số phận của "hàng hàng lớp lớp" sĩ quan kẹt lại ở trong nước, ông đã phải lầm lũi đi vào những trại tập trung, những lò cải tạo (Suối Máu, Chí Hòa) để trả giá cho các thành tích trong quân ngũ và trong hoạt động âm nhạc.
Không rõ ông đã "học tập" được những gì, có điều là cơ thể ông đã "tiếp thu" đủ thứ mầm bệnh trong những năm "cải tạo" ấy khiến sức khỏe ông có lúc suy kiệt đến trầm trọng. Chứng phong thấp, căn bệnh quái ác, đã khiến các đốt xương ngón tay của ông sưng tấy lên, các ngón tay co quắp đến gần như không còn cử động được nữa.
"Anh xem này," ông nói với người bạn "tù cải tạo" ở cùng trại Suối Máu, giọng bùi ngùi. "Bàn tay tôi như thế này coi như ‘phế bỏ võ công' rồi, làm sao còn chơi đàn được nữa!"
Tay đã thế, chân lại càng tệ hơn, các khớp
xương đầu gối biến dạng và đau nhức đến mức ông phải nằm điều trị nhiều năm
trong các bệnh viện ở Saigon
trước khi rời bỏ đôi nạng để đi đứng được bình thường trở lại.
Sau "ngày tàn chiến cuộc" năm 1975, như số phận của "hàng hàng lớp lớp" sĩ quan kẹt lại ở trong nước, ông đã phải lầm lũi đi vào những trại tập trung, những lò cải tạo (Suối Máu, Chí Hòa) để trả giá cho các thành tích trong quân ngũ và trong hoạt động âm nhạc.
Không rõ ông đã "học tập" được những gì, có điều là cơ thể ông đã "tiếp thu" đủ thứ mầm bệnh trong những năm "cải tạo" ấy khiến sức khỏe ông có lúc suy kiệt đến trầm trọng. Chứng phong thấp, căn bệnh quái ác, đã khiến các đốt xương ngón tay của ông sưng tấy lên, các ngón tay co quắp đến gần như không còn cử động được nữa.
"Anh xem này," ông nói với người bạn "tù cải tạo" ở cùng trại Suối Máu, giọng bùi ngùi. "Bàn tay tôi như thế này coi như ‘phế bỏ võ công' rồi, làm sao còn chơi đàn được nữa!"
Về đây ngơ
ngác chim bay tìm đàn
Về đây hoang vắng lạnh buốt cung đàn...
Về đây hoang vắng lạnh buốt cung đàn...
Như là câu hát
trong bài "Về mái nhà xưa" của ông, sau đúng mười năm "học tập
cải tạo" (ông được
thả về đầu năm 1985), tác
giả bài nhạc ấy đã về lại sau cuộc chiến, về lại sau những năm đọa đầy, về lại
với một thân xác đầy tật bệnh, với một tâm hồn đầy thương tích.
Xa lạ trước cuộc
sống mới, trước một xã hội có lắm đổi thay sau cuộc bể dâu, ông bày tỏ sự hối
tiếc đã lãng phí những năm dài do không tìm lại được nguồn cảm hứng nào cho
hoạt động âm nhạc cũng như không đóng góp được chút gì có ý nghĩa cho đời. Ðối
với con người nghệ sĩ tài hoa, đầy sức sáng tạo, và có thói quen làm việc không
ngưng nghỉ, không mệt mỏi như ông thì đấy quả là một sự "hối tiếc vô
bờ" như ông nói.
"Tại sao ông không xin định cư ở nước ngoài trong lúc có đủ điều kiện của người tù cải tạo?" Trả lời câu hỏi này, ông cho biết, "Do những căn bệnh ngặt nghèo tưởng như ‘hết thuốc chữa' và do tinh thần suy sụp đến tột cùng, có lúc tôi đã nghĩ rằng mình không còn sống được bao lâu nữa nên chẳng còn thiết tha bất cứ chuyện gì, chỉ muốn từ bỏ tất cả để được thảnh thơi yên nghỉ ở cuối đời."
Vậy mà, nhờ "thần dược" hay nhờ... phép lạ, ông vẫn sống sót được đến ngày hôm nay. Vợ chồng ông có một cửa hàng tạp hóa nhỏ (nơi gia đình ông cư ngụ), là nguồn thu nhập chính cho "kinh tế gia đình".
"Tại sao ông không xin định cư ở nước ngoài trong lúc có đủ điều kiện của người tù cải tạo?" Trả lời câu hỏi này, ông cho biết, "Do những căn bệnh ngặt nghèo tưởng như ‘hết thuốc chữa' và do tinh thần suy sụp đến tột cùng, có lúc tôi đã nghĩ rằng mình không còn sống được bao lâu nữa nên chẳng còn thiết tha bất cứ chuyện gì, chỉ muốn từ bỏ tất cả để được thảnh thơi yên nghỉ ở cuối đời."
Vậy mà, nhờ "thần dược" hay nhờ... phép lạ, ông vẫn sống sót được đến ngày hôm nay. Vợ chồng ông có một cửa hàng tạp hóa nhỏ (nơi gia đình ông cư ngụ), là nguồn thu nhập chính cho "kinh tế gia đình".
Tuy sức khoẻ có sa
sút, tuy cuộc sống có chật vật, "người lính Nguyễn Văn Ðông" vẫn có
lúc quên đi nỗi đau của riêng mình, vẫn có lúc để lòng mình nghiêng xuống những
số phận rủi ro, những số kiếp hẩm hiu của bao người kém may mắn hơn mình.
Những bản tin tôi
đọc được ở trong, ngoài nước nói về các công tác cứu trợ những mảnh đời rách
nát, những kiếp người lầm than, vẫn nhắc đến bàn tay nhân ái, trái tim nhân hậu
của người lính, người nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông.
Nhạc lính, nói sao đi nữa cũng từng là "nhạc thời trang" ở miền Nam ViệtNam một thời nào. Loại nhạc thời trang
"đặc biệt" này khá phổ biến và có tuổi thọ đo được bằng chiều dài của
cuộc chiến tranh hai miền Nam-Bắc, nghĩa là kéo dài hơn bất cứ loại nhạc thời
trang nào khác, có lúc trở thành cực thịnh, là thời kỳ cường độ cuộc chiến gia
tăng đến mức khốc liệt nhất. Còn chiến tranh là còn nhạc lính.
Trong những năm dài chinh chiến ấy, có rất nhiều ca khúc khá hay viết về người lính và đời lính của một số tác giả ở trong và ngoài quân ngũ, ngợi ca tinh thần chiến đấu anh dũng, sự hy sinh cao cả và thầm lặng của người lính chiến. "Nhạc lính Nguyễn Văn Ðông" là một trong số ấy. Hơn thế nữa, nhạc lính của ông có những nét rất "riêng", mang sắc thái đặc biệt, được rất nhiều người yêu nhạc (lính hoặc không phải lính) yêu thích.
Trong phạm vi nói về "nhạc lính" của Nguyễn Văn Ðông, những ca khúc quen thuộc của ông nhưng không kể là "nhạc lính" (đôi lúc được ông ký dưới những tên khác) sẽ không đề cập trong bài này hoặc chỉ nói sơ qua.
Những năm trước ngày chiến tranh kết thúc, ngoài những bài "chiến đấu ca" trong quân đội và những bài hát cộng đồng, có vẻ những bài nhạc đề cao lý tưởng, chính nghĩa, tinh thần chiến đấu và hy sinh của người lính ngày càng ít đi (trừ ít bài ngợi ca những tên tuổi cá biệt của người lính đã đền nợ nước, như "Huyền sử ca một người mang tên Quốc" của Phạm Duy, "Anh không chết đâu anh", "Người ở lại Charlie" của Trần Thiện Thanh...).
Nhạc lính, nói sao đi nữa cũng từng là "nhạc thời trang" ở miền Nam Việt
Trong những năm dài chinh chiến ấy, có rất nhiều ca khúc khá hay viết về người lính và đời lính của một số tác giả ở trong và ngoài quân ngũ, ngợi ca tinh thần chiến đấu anh dũng, sự hy sinh cao cả và thầm lặng của người lính chiến. "Nhạc lính Nguyễn Văn Ðông" là một trong số ấy. Hơn thế nữa, nhạc lính của ông có những nét rất "riêng", mang sắc thái đặc biệt, được rất nhiều người yêu nhạc (lính hoặc không phải lính) yêu thích.
Trong phạm vi nói về "nhạc lính" của Nguyễn Văn Ðông, những ca khúc quen thuộc của ông nhưng không kể là "nhạc lính" (đôi lúc được ông ký dưới những tên khác) sẽ không đề cập trong bài này hoặc chỉ nói sơ qua.
Những năm trước ngày chiến tranh kết thúc, ngoài những bài "chiến đấu ca" trong quân đội và những bài hát cộng đồng, có vẻ những bài nhạc đề cao lý tưởng, chính nghĩa, tinh thần chiến đấu và hy sinh của người lính ngày càng ít đi (trừ ít bài ngợi ca những tên tuổi cá biệt của người lính đã đền nợ nước, như "Huyền sử ca một người mang tên Quốc" của Phạm Duy, "Anh không chết đâu anh", "Người ở lại Charlie" của Trần Thiện Thanh...).
Không còn nghe
thấy nữa những bài nhạc một thời làm nức lòng chiến đấu của người lính vì nước
quên mình:
Khi nước nhà
phút ngả nghiêng,
em mơ người
trai anh dũng,
mang thân thế
hiến giang san,
chí quật cường
hiên ngang...
("Chiến sĩ của lòng em", Trịnh Văn Ngân)
Em chúc cho chàng lập chiến công oai hùng,
("Chiến sĩ của lòng em", Trịnh Văn Ngân)
Em chúc cho chàng lập chiến công oai hùng,
vang vang lời
chiến thắng,
muôn thu danh
chàng lừng lẫy với núi sông...
("Chàng đi theo nước", Hiếu Nghĩa)
Anh đi mai về chiến thắng,
("Chàng đi theo nước", Hiếu Nghĩa)
Anh đi mai về chiến thắng,
khi súng quân
thù thôi vang trên non sông,
tươi thắm màu
cờ vui reo trên kinh thành...
("Anh đi mai về", Hoàng Nguyên)
Anh đi xây chiến thắng,
("Anh đi mai về", Hoàng Nguyên)
Anh đi xây chiến thắng,
dưới màu cờ
quật cường, c
ho loài người
hòa bình...
("Dặn dò", Thanh Châu)
Anh sẽ là anh đàn em nhỏ,
("Dặn dò", Thanh Châu)
Anh sẽ là anh đàn em nhỏ,
là con của mẹ
giữ quê hương...
("Tình quê hương", Ðan Thọ & thơ Phan Lạc Tuyên)
Không quên lời xưa đã ước thề,
("Tình quê hương", Ðan Thọ & thơ Phan Lạc Tuyên)
Không quên lời xưa đã ước thề,
dâng cả đời trai
với sa trường...
("Anh đi chiến dịch", Phạm Ðình Chương)
("Anh đi chiến dịch", Phạm Ðình Chương)
Và ít bài nhạc
khác như "Lá thư gửi mẹ" (Nguyễn Hiền & thơ Thái Thủy), "Bức tâm thư" (Lam Phương), "Trên bốn vùng chiến thuật" (Trúc Phương), "Biệt kinh kỳ" (Minh Kỳ
& Hoài Linh), "Anh về thủ đô" (Y Vân), "Mười sáu trăng tròn" (Trần Thiện Thanh)...
Nhạc lính Nguyễn Văn Ðông, trong lúc ấy, trước sau vẫn dạt dào tình yêu quê hương, đất nước, vẫn ngợi ca người lính chiến, vẫn đề cao lý tưởng và chính nghĩa cuộc chiến đấu của quân dân miền Nam (mà không phải... "tuyên truyền tâm lý chiến").
Nhạc lính Nguyễn Văn Ðông không có những "tô son điểm phấn" cho đời lính kiểu "anh tiền tuyến, em hậu phương", "người yêu của lính"...
Nhạc lính Nguyễn Văn Ðông, trong lúc ấy, trước sau vẫn dạt dào tình yêu quê hương, đất nước, vẫn ngợi ca người lính chiến, vẫn đề cao lý tưởng và chính nghĩa cuộc chiến đấu của quân dân miền Nam (mà không phải... "tuyên truyền tâm lý chiến").
Nhạc lính Nguyễn Văn Ðông không có những "tô son điểm phấn" cho đời lính kiểu "anh tiền tuyến, em hậu phương", "người yêu của lính"...
Trong lời nhạc của
ông không có những mộng mơ, lãng mạn kiểu "anh là lính đa tình" ("Tình lính", Y Vân), hay "ba-lô thay người tình yêu
dấu..." ("Ai nói
với em", Minh Kỳ & Huy Cường), hay "những đóm mắt hỏa châu là hoa đăng ngày cưới..." ("Những đóm mắt hỏa châu", Hàn
Châu), cũng không có những
lời thở than hoặc cay đắng như "nhiều đông lắm hạ nối tiếp đi qua, thiếu
bóng đàn bà..." hoặc "đến với tôi, hãy đến với tôi, đừng yêu lính
bằng lời..." ("Kẻ ở miền xa", Trúc Phương) vân vân... (Người viết chỉ nêu những khác biệt, không
có ý bình phẩm).
Nhạc lính Nguyễn Văn Ðông, như đời lính của ông, là cuộc chiến đấu gian khổ, là những lần xông pha trận mạc, là những cuộc hành quân không giống như là đi... picnic để "đem cánh hoa rừng về tặng em" ("Người yêu của lính", Trần Thiện Thanh), mà luôn kề cận những bất trắc, những hiểm nguy...
Nhạc lính Nguyễn Văn Ðông, như đời lính của ông, là cuộc chiến đấu gian khổ, là những lần xông pha trận mạc, là những cuộc hành quân không giống như là đi... picnic để "đem cánh hoa rừng về tặng em" ("Người yêu của lính", Trần Thiện Thanh), mà luôn kề cận những bất trắc, những hiểm nguy...
Ở một đôi bài
Nguyễn Văn Ðông, giai điệu có lúc gần gụi với nét nhạc phóng khoáng, mênh mang
của Lâm Tuyền (tác giả
"Tiếng thời gian", "Khúc nhạc ly hương", "Hình ảnh một
buổi chiều"...).
Lời nhạc Nguyễn
Văn Ðông như có "khẩu khí" riêng, đôi lúc phảng phất cái khẩu khí đầy
vẻ thi vị trong thơ Quang Dũng, Thâm Tâm hoặc trong... "Chinh phụ ngâm
khúc", tạo nên sắc thái đặc biệt tiêu biểu cho dòng nhạc lính của ông.
Có thể nói, Nguyễn
Văn Ðông là một trong những nhạc sĩ sử dụng sớm nhất những từ ngữ "đường mây",
"sơn khê", "giang đầu", "khanh tướng", "sa
trường", "biên thùy", "khu chiến", "tang
bồng", "hội trùng dương"...
Những từ khá cổ
điển nhưng qua nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ thích ứng, lại đặc biệt có vẻ phù
hợp với "lính tráng", làm dậy lên những cảm xúc rất "lính",
khiến nhạc lính Nguyễn Văn Ðông có một "khí hậu" riêng, mang mang thi
vị của hơi thơ cổ, nhuốm vẻ hùng tráng và lãng mạn như bức họa đẹp và buồn của
một "thuở trời đất nổi cơn gió bụi". (2)
Anh như ngàn
gió, ham ngược xuôi theo đường mây...
(Mấy dặm sơn khê)
Ngoài mưa khuya lê thê, qua ngàn chốn sơn khê...
(Mấy dặm sơn khê)
Sao còn đứng ngóng nơi giang đầu?...
(Chiều mưa biên giới)
Lòng trần còn tơ vương khanh tướng...
(Chiều mưa biên giới)
Thương mầu áo gửi ra sa trường...
(Chiều mưa biên giới)
Chốn biên thùy này xuân tới chi?...
(Phiên gác đêm xuân)
Xưa từ khu chiến về thăm xóm...
(Sắc hoa màu nhớ)
Lòng này thách với tang bồng...
(Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp)
Hội trùng dương hát câu sum vầy...
(Hải ngoại thương ca)
(Mấy dặm sơn khê)
Ngoài mưa khuya lê thê, qua ngàn chốn sơn khê...
(Mấy dặm sơn khê)
Sao còn đứng ngóng nơi giang đầu?...
(Chiều mưa biên giới)
Lòng trần còn tơ vương khanh tướng...
(Chiều mưa biên giới)
Thương mầu áo gửi ra sa trường...
(Chiều mưa biên giới)
Chốn biên thùy này xuân tới chi?...
(Phiên gác đêm xuân)
Xưa từ khu chiến về thăm xóm...
(Sắc hoa màu nhớ)
Lòng này thách với tang bồng...
(Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp)
Hội trùng dương hát câu sum vầy...
(Hải ngoại thương ca)
Chữ "đường
mây" chẳng hạn ("đường
mây chân núi xa...", "ngược xuôi theo đường mây...") là từ rất cũ, từ thuở... "Chinh phụ
ngâm khúc" (Sứ trời
sớm giục đường mây), được
đưa vào ca từ Nguyễn Văn Ðông, lại như có vẻ "mới" và nghe rất
"lính".
Trong một lần trả
lời phỏng vấn báo chí trước năm 1975, nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông cho biết ông chịu
ít nhiều ảnh hưởng của nền văn hóa Pháp trong các sáng tác âm nhạc và nhắc đến
tên vài bài nhạc cũ của những thập niên 40's, 50's như "J'attendrai",
"Ma Normandie", "La Vie en Rose"...
· "Lòng này thách với tang bồng"...
Người lính trong nhạc Nguyễn Văn Ðông là lính trận, là lính tác chiến, là những người lính "áo anh mùi thuốc súng", là những người lính vừa trở về từ chiến trường lửa đạn.
Hơn bất cứ một nhạc sĩ nào khác viết về lính, nhạc Nguyễn Văn Ðông làm nổi bật lý tưởng của người quân nhân cầm súng chiến đấu. Mặc "ai công hầu, ai khanh tướng", người đi vì lý tưởng đã vẽ lên những hình tượng đẹp, lãng mạn và đầy hào khí của những chàng Kinh Kha thời đại.
· "Lòng này thách với tang bồng"...
Người lính trong nhạc Nguyễn Văn Ðông là lính trận, là lính tác chiến, là những người lính "áo anh mùi thuốc súng", là những người lính vừa trở về từ chiến trường lửa đạn.
Hơn bất cứ một nhạc sĩ nào khác viết về lính, nhạc Nguyễn Văn Ðông làm nổi bật lý tưởng của người quân nhân cầm súng chiến đấu. Mặc "ai công hầu, ai khanh tướng", người đi vì lý tưởng đã vẽ lên những hình tượng đẹp, lãng mạn và đầy hào khí của những chàng Kinh Kha thời đại.
Người đi giúp núi
sông
hàng hàng lớp lớp chưa về, hàng hàng nối tiếp câu thề
giành lấy quê hương...
Người đi giúp nước nào màng danh chi
cầu cho đất nước vượt ngàn gian nguy...
(Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp)
Lòng trần còn tơ vương khanh tướng
thì đường trần mưa bay gió cuốn
còn nhiều anh ơi... (Chiều mưa biên giới)
hàng hàng lớp lớp chưa về, hàng hàng nối tiếp câu thề
giành lấy quê hương...
Người đi giúp nước nào màng danh chi
cầu cho đất nước vượt ngàn gian nguy...
(Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp)
Lòng trần còn tơ vương khanh tướng
thì đường trần mưa bay gió cuốn
còn nhiều anh ơi... (Chiều mưa biên giới)
"Chiến trường
đi chẳng tiếc đời xanh" (3) Những
chàng trai đất Việt nặng một lời thề, mang tổ quốc trên vai, mang tình yêu nước
trong tim, hàng hàng lớp lớp theo nhau lên đường. Từng đoàn người tiếp bước những
đoàn người đi viết tiếp những trang sử hào hùng của dân tộc Việt.
Đời tôi quân
nhân, chút tình gửi cho núi sông...
(Sắc hoa màu nhớ)
Nước non còn đó một tấc lòng
không mờ xóa cùng năm tháng...
(Mấy dặm sơn khê)
Đời dâng cho núi sông
dù ngàn nắng lửa mưa dầu
lòng người nhất quyết không đầu, giành lấy mai sau...
(Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp)
(Sắc hoa màu nhớ)
Nước non còn đó một tấc lòng
không mờ xóa cùng năm tháng...
(Mấy dặm sơn khê)
Đời dâng cho núi sông
dù ngàn nắng lửa mưa dầu
lòng người nhất quyết không đầu, giành lấy mai sau...
(Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp)
Khi đời đã
"dâng cho núi sông", khi lòng đã "nhất quyết không đầu",
thì... "mẹ thà coi như chiếc lá bay" (4)
Đời lính thân
con nề chi...
Mẹ hiền ơi chớ buồn vì con, nước non chưa tròn...
(Lá thư người lính chiến)
Mẹ hiền ơi chớ buồn vì con, nước non chưa tròn...
(Lá thư người lính chiến)
Chút tình riêng
đành gác lại, vì tình nước sâu hơn tình lứa đôi.
Đường đi biên
giới xa...
lòng này thách với tang bồng
đừng sầu má ấy phai hồng, buồn lắm em ơi...
Hỡi người anh thương, chưa trọn thề ước
nhưng tình đất nước ôi lớn lao không đành lòng
dệt mối thắm riêng tư...
(Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp)
Vầng trăng xẻ đôi, vẫn in hình bóng một người...
(Chiều mưa biên giới)
lòng này thách với tang bồng
đừng sầu má ấy phai hồng, buồn lắm em ơi...
Hỡi người anh thương, chưa trọn thề ước
nhưng tình đất nước ôi lớn lao không đành lòng
dệt mối thắm riêng tư...
(Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp)
Vầng trăng xẻ đôi, vẫn in hình bóng một người...
(Chiều mưa biên giới)
"Chiều mưa
biên giới"(1956), một trong những bài nhạc lính quen thuộc
của Nguyễn Văn Ðông, là trường hợp khá đặc biệt, nổi tiếng do hai sự kiện: thứ
nhất, nhờ sự trình diễn thành công của nghệ sĩ Trần Văn Trạch qua làn sóng phát
thanh ở Paris, dẫn đến một hợp đồng thu thanh bài hát bằng hai thứ tiếng Việt
và Pháp với một hảng dĩa lớn cùa Pháp (là việc chưa từng có trong lịch sử tân nhạc Việt thời bấy giờ); thứ hai, nhờ quyết định... cấm phổ biến
của Bộ Thông Tin thời ấy, lý do là lời nhạc không thích hợp.
Tại sao cấm phổ biến? Tại sao "lời nhạc không thích hợp"? Nghe lại "Chiều mưa biên giới", tôi không thấy có "vấn đề" gì đáng gọi là cấm kỵ. Có thể là những lời lẽ dưới đây chăng(?):
Tại sao cấm phổ biến? Tại sao "lời nhạc không thích hợp"? Nghe lại "Chiều mưa biên giới", tôi không thấy có "vấn đề" gì đáng gọi là cấm kỵ. Có thể là những lời lẽ dưới đây chăng(?):
Chiều mưa biên
giới anh đi về đâu
sao còn đứng ngóng nơi giang đầu?...
Về đâu anh hỡi mưa rơi chiều nay?...
sao còn đứng ngóng nơi giang đầu?...
Về đâu anh hỡi mưa rơi chiều nay?...
Người lính
chiến... mất phương hướng, không biết sẽ đi đâu, về đâu(?). Hoặc:
Kìa rừng chiều
âm u rét mướt...
Một vùng mây nước cho lòng ai thương nhớ ai...
Cờ về chiều tung bay phất phới
gợi lòng này thương thương nhớ nhớ...
Người đi khu chiến thương người hậu phương...
Một vùng mây nước cho lòng ai thương nhớ ai...
Cờ về chiều tung bay phất phới
gợi lòng này thương thương nhớ nhớ...
Người đi khu chiến thương người hậu phương...
Người lính chiến
"nhìn trời hiu quạnh", lòng còn vương vấn chút tình... riêng(?).
Nếu không phải vì những lời nhạc kể trên, có thể là do giai điệu u uẩn, man mác của bài nhạc làm... nản lòng binh sĩ, làm suy giảm tinh thần chiến đấu của quân đội(?).
Dù với bất cứ lý do gì, những câu hát này thực sự chẳng thấm tháp vào đâu so với những bài bản "phản chiến" ít năm sau đó, phổ biến tràn lan một thời mà chẳng ai cấm nổi, chẳng hạn "tôi có người yêu chết trận Pleime..."
Nếu không phải vì những lời nhạc kể trên, có thể là do giai điệu u uẩn, man mác của bài nhạc làm... nản lòng binh sĩ, làm suy giảm tinh thần chiến đấu của quân đội(?).
Dù với bất cứ lý do gì, những câu hát này thực sự chẳng thấm tháp vào đâu so với những bài bản "phản chiến" ít năm sau đó, phổ biến tràn lan một thời mà chẳng ai cấm nổi, chẳng hạn "tôi có người yêu chết trận Pleime..."
("Tình ca
người mất trí", Trịnh Công Sơn), "quyết chối từ chém giết anh em..." ("Chính chúng ta phải nói",
Trịnh Công Sơn), hoặc
"anh trở về bại tướng cụt chân..." ("Kỷ vật cho em", Phạm Duy & Linh Phương), "ngày mai đi nhận xác chồng..., anh
lên lon giữa hai hàng nến chong..." ("Tưởng như còn người yêu", Phạm Duy & Lê Thị Ý)...
"Chiều mưa biên giới" bị cấm phổ biến chỉ vì ra đời... sớm vài năm, trở thành một trong những bài nhạc đầu tiên được khoác cho tên gọi là "phản chiến".
"Chiều mưa biên giới" trở thành bài nhạc lính tiêu biểu của Nguyễn Văn Ðông, gắn liền với tên tuổi của ông, gắn liền với giọng hát Trần Văn Trạch, gắn liền với câu hát "lòng trần còn tơ vương khanh tướng thì đường trần mưa bay gió cuốn còn nhiều..." vừa mang tính "triết lý" về đời lính, vừa đượm vẻ... "lãng mạn Nguyễn Văn Ðông".
Lãng mạn Nguyễn Văn Ðông
"Chiều mưa biên giới" bị cấm phổ biến chỉ vì ra đời... sớm vài năm, trở thành một trong những bài nhạc đầu tiên được khoác cho tên gọi là "phản chiến".
"Chiều mưa biên giới" trở thành bài nhạc lính tiêu biểu của Nguyễn Văn Ðông, gắn liền với tên tuổi của ông, gắn liền với giọng hát Trần Văn Trạch, gắn liền với câu hát "lòng trần còn tơ vương khanh tướng thì đường trần mưa bay gió cuốn còn nhiều..." vừa mang tính "triết lý" về đời lính, vừa đượm vẻ... "lãng mạn Nguyễn Văn Ðông".
Lãng mạn Nguyễn Văn Ðông
"Chàng
tuổi trẻ vốn giòng hào kiệt
xếp bút nghiên theo việc đao cung" (2)
xếp bút nghiên theo việc đao cung" (2)
Trong suốt chiều
dài lịch sử của dân tộc luôn có những năm thái bình thịnh trị và những năm
chinh chiến điêu linh. Khi vận nước ngả nghiêng, những chàng trai thời loạn đã
hiến dâng tuổi trẻ, lên đường theo tiếng gọi của non sông, bỏ lại sau lưng
những mộng ước chưa tròn...
Hình tượng người
lính chiến qua dòng nhạc Nguyễn Văn Ðông, ngoài lý tưởng, lòng yêu nước thương
dân, tinh thần hy sinh và chiến đấu, vẫn không thiếu nét lãng mạn của "chí
lớn chưa về bàn tay không, thì không bao giờ nói trở lại..." (4)
Nhìn em muốn
nói chuyện người Kinh Kha
ngại khơi nước mắt nhạt nhòa môi em...
(Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp)
Mấy ai ra đi hẹn về dệt nốt tơ duyên...
(Mấy dặm sơn khê)
ngại khơi nước mắt nhạt nhòa môi em...
(Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp)
Mấy ai ra đi hẹn về dệt nốt tơ duyên...
(Mấy dặm sơn khê)
Lãng mạn Nguyễn
Văn Ðông đẹp tựa câu thơ cũ, "chàng từ đi vào nơi gió cát..." (2), câu thơ về những chàng trai, những người
lính chiến ôm mộng hải hồ, bạn cùng sương gió. Trên khắp các nẻo đường đất
nước, từ miền địa đầu giới tuyến đến những nơi đầu sóng ngọn gió, từ những
tuyến đầu lửa đạn đến những tiền đồn heo hút xa xăm, nơi đâu cũng in hằn dấu
chân người lính.
Anh như ngàn
gió
ham ngược xuôi theo đường mây
Tóc tơi bời lộng gió bốn phương...
(Mấy dặm sơn khê)
ham ngược xuôi theo đường mây
Tóc tơi bời lộng gió bốn phương...
(Mấy dặm sơn khê)
Lãng mạn Nguyễn
Văn Ðông đẹp tựa huyền thoại "trăng treo đầu súng" trong một
"phiên gác đêm xuân" giữa vùng hành quân đồi núi chập chùng.
Xác hoa tàn
rơi trên báng súng
ngỡ rằng pháo tung bay, ngờ đâu hoa lá rơi...
(Phiên Gác Đêm Xuân)
Đêm nằm gối súng, chung ánh trăng
cho người này gợi nhớ thương người kia...
(Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp)
ngỡ rằng pháo tung bay, ngờ đâu hoa lá rơi...
(Phiên Gác Đêm Xuân)
Đêm nằm gối súng, chung ánh trăng
cho người này gợi nhớ thương người kia...
(Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp)
Câu hát gợi nhớ
câu lục bát Nguyễn Du, "Vầng
trăng ai xẻ làm đôi / Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường..." Lãng mạn Nguyễn Văn Ðông không chỉ ở những
bản tình ca gợi nhớ những mùa xuân thanh bình một thuở, như là "chiều nay
hoa xuân bay nhiều quá..." hay là "chiều nay thấy hoa cười chợt nhớ
một người..." (Nhớ
một chiều xuân), mà còn ở
trong những câu hát của một mùa chiến chinh.
Tình yêu, bên cạnh
những nỗi bất trắc, vẫn nở hoa, như những đóa hồng vẫn nở bên những hầm hố và
hàng rào kẽm gai. Vẫn có chút tình yêu làm quà tặng và lẽ sống cho những người
lính cầm súng chiến đấu, vẫn có những ánh mắt, "nụ cười xinh tươi"
trong câu chuyện tình thời chiến, câu chuyện tình "người hùng và giai
nhân".
Còn đây giây
phút này
còn nghe tiếng hát, nụ cười xinh tươi
còn trông ánh mắt, còn cầm tay nhau...
(Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp)
còn nghe tiếng hát, nụ cười xinh tươi
còn trông ánh mắt, còn cầm tay nhau...
(Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp)
Tình yêu thường
xen lẫn thân phận người lính xa nhà, xa người mình thương yêu. "Chàng thì
đi cõi xa mưa gió / Thiếp lại về buồng cũ gối chăn" (2), một người đi, một người ở lại và những
năm chờ tháng đợi mỏi mòn.
Một người gối
chiếc cô phòng
còn người góc núi ven rừng, chân mây đầu gió...
(Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp)
còn người góc núi ven rừng, chân mây đầu gió...
(Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp)
Con đường đấu
tranh gian khổ còn dài, những chuyến về thăm, những lần về phép, người lính
chiến dừng chân trong chốc lát, rồi lại lên đường, lại miệt mài đi khi quê
hương còn tiếng súng, khi máu xương còn rơi...
Anh đến thăm,
áo anh mùi thuốc súng...
Anh đến đây, rồi anh như bóng mây...
Anh hỡi anh, đường xa vui đấu tranh...
(Mấy dặm sơn khê)
Tôi lại đi giữa trời sương gió
Mầu hoa thắm vẫn sống trong tôi...
(Sắc hoa mầu nhớ)
Anh đến đây, rồi anh như bóng mây...
Anh hỡi anh, đường xa vui đấu tranh...
(Mấy dặm sơn khê)
Tôi lại đi giữa trời sương gió
Mầu hoa thắm vẫn sống trong tôi...
(Sắc hoa mầu nhớ)
Người nghe đôi lúc
bắt gặp đâu đó trong lời nhạc Nguyễn Văn Ðông những câu hát thật là đẹp.
Cầm tay nhau
đi anh
tơ trời quá mong manh...
(Mấy dặm sơn khê)
tơ trời quá mong manh...
(Mấy dặm sơn khê)
"Tơ
trời"?... Là sợi nắng lung linh hay sợi mưa phùn giăng mắc? Tơ trời mong
manh hay những phút giây gần nhau cũng mong manh như những sợi... tơ trời?
Người lính trong
nhạc Nguyễn Văn Ðông vẫn có những phút để hồn mình lắng xuống, để lòng mình
bâng khuâng vì một sắc hoa, một mầu áo...
Chiều hành
quân nay qua lối xưa
giữa một chiều gió mưa
xác hoa hồng mênh mông...
Nhìn mầu hoa vừa tan tác rơi
nhớ muôn vàn... nhớ ơi
hát trong mầu hoa nhớ... (Sắc hoa mầu nhớ)
giữa một chiều gió mưa
xác hoa hồng mênh mông...
Nhìn mầu hoa vừa tan tác rơi
nhớ muôn vàn... nhớ ơi
hát trong mầu hoa nhớ... (Sắc hoa mầu nhớ)
Cuộc đời lính
chiến, nhờ vậy, cũng sẽ đẹp thêm lên một chút. Người lính trong nhạc Nguyễn Văn
Ðông không phải là "không có trái tim đắm say mộng mơ" ("Ai nói
với em", nhạc Minh Kỳ & Huy Cường). Những ước mơ của người lính thật
đơn sơ và "trắng như mây chiều".
Ước mong nhiều
đời không (cho) bấy nhiêu
vì mơ ước trắng như mây chiều...
(Phiên gác đêm xuân)
vì mơ ước trắng như mây chiều...
(Phiên gác đêm xuân)
"Mơ ước"
gì vậy? Nếu không phải là nỗi ước mơ của những người đi đấu tranh để mang về
mùa xuân mới cho quê hương.
Mong sao nước
Việt đời đời
anh dũng oai hùng chen chân thế giới...
Người về đây giữa non sông này
hội trùng dương hát câu sum vầy
Về cho thấy con thuyền nướcNam
đi vào mùa xuân mới sang
xa rồi ngày ấy ly tan...
(Hải ngoại thương ca)
anh dũng oai hùng chen chân thế giới...
Người về đây giữa non sông này
hội trùng dương hát câu sum vầy
Về cho thấy con thuyền nước
đi vào mùa xuân mới sang
xa rồi ngày ấy ly tan...
(Hải ngoại thương ca)
Người lính
già không bao giờ chết
"Hải ngoại thương ca" cũng là trường hợp đặc biệt khác, sau "Chiều mưa biên giới". Không rõ động lực nào, hoàn cảnh nào đã khiến nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông cho ra đời ca khúc ấy. Trước và sau ông hầu như chưa có nhạc sĩ nào viết về đề tài tương tự.
"Hải ngoại thương ca" cũng là trường hợp đặc biệt khác, sau "Chiều mưa biên giới". Không rõ động lực nào, hoàn cảnh nào đã khiến nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông cho ra đời ca khúc ấy. Trước và sau ông hầu như chưa có nhạc sĩ nào viết về đề tài tương tự.
Ðiều thú vị, các
"cán bộ" văn hóa văn nghệ ở trong nước đã lầm tưởng "Hải ngoại
thương ca" là "sáng tác mới" của Nguyễn Văn Ðông, đến lúc hiểu
ra rằng đấy là bài nhạc cũ (1963), đã phải thốt lên, "Làm sao mà ở miền
Nam ngày trước lại có bài nhạc hay đến như thế, lại phù hợp với hiện tình đất nước
đến như thế!"
Cái "hay" trong lời ngợi khen ấy có thể hiểu là cái hay của nội dung bài nhạc được diễn dịch theo chiều hướng có lợi và phù hợp với chính sách kiều vận, với chủ trương "hòa hợp và hòa giải dân tộc" của "nhà nước ta" đối với "khúc ruột ngàn dặm" là cộng đồng người Việt ở nước ngoài, một "bộ phận" không thể tách rời của dân tộc.
Cái "hay" trong lời ngợi khen ấy có thể hiểu là cái hay của nội dung bài nhạc được diễn dịch theo chiều hướng có lợi và phù hợp với chính sách kiều vận, với chủ trương "hòa hợp và hòa giải dân tộc" của "nhà nước ta" đối với "khúc ruột ngàn dặm" là cộng đồng người Việt ở nước ngoài, một "bộ phận" không thể tách rời của dân tộc.
Cái
"hay" ấy là cái hay của những câu hát được xem là thể hiện "tâm
tư tình cảm" của bà con "Việt kiều yêu nước" trong chuyến về
thăm quê nhà:
Một mùa thương
kết muôn hoa lòng
người về đây nối câu tâm đồng...
Tôi đi giữa trời bồi hồi
cờ bay phất phới quên chuyện ngày xưa...
Người về đây giữa non sông này
hội trùng dương hát câu sum vầy...
người về đây nối câu tâm đồng...
Tôi đi giữa trời bồi hồi
cờ bay phất phới quên chuyện ngày xưa...
Người về đây giữa non sông này
hội trùng dương hát câu sum vầy...
Không có gì đáng
ngạc nhiên khi các báo trong nước đưa tin "Hải ngoại thương ca" là
một trong những bài đầu tiên được Cục Nghệ thuật Biểu diễn thuộc Bộ Văn hóa
Thông tin nhanh chóng duyệt qua, trong số 18 ca khúc của Nguyễn Văn Ðông được
phép lưu hành trong nước kể từ năm 2003.
(Trong số, có
vài ca khúc quen thuộc, như "Nhớ một chiều xuân", "Về mái nhà
xưa", "Thầm kín", "Khúc xuân ca", "Núi và
gió", "Trái tim Việt Nam"... Tất nhiên là không có những
bài... nhạc lính).
Trong lúc "Hải ngoại thương ca" được viết với nhạc điệu slow rock khá thịnh hành giữa thập niên 60's, thể hiện tình cảm phấn khởi như những bước chân đi tới, như niềm tin phơi phới vào một vận hội mới về trên quê hương, "Mấy dặm sơn khê" có tiết tấu chậm rãi hơn, tình cảm sâu lắng hơn, phác họa nét đẹp của người lính ngược xuôi trên khắp các nẻo đường đất nước.
Trong lúc "Hải ngoại thương ca" được viết với nhạc điệu slow rock khá thịnh hành giữa thập niên 60's, thể hiện tình cảm phấn khởi như những bước chân đi tới, như niềm tin phơi phới vào một vận hội mới về trên quê hương, "Mấy dặm sơn khê" có tiết tấu chậm rãi hơn, tình cảm sâu lắng hơn, phác họa nét đẹp của người lính ngược xuôi trên khắp các nẻo đường đất nước.
"Khúc tình ca
hàng hàng lớp lớp" là bức tranh hoành tráng về đời lính được vẽ bằng những
giai điệu, những khúc hát dạt dào tình nước, khi réo rắt, khi trầm bổng, khi
lãng mạn như một khúc tình ca, khi hùng tráng như một khúc quân hành.
Nhạc lính Nguyễn Văn Ðông từng được thể hiện qua những giọng ca khác nhau, từ Thái Thanh, Lệ Thanh, Hà Thanh, Khánh Ngọc, Lệ Thu... đến Trần Văn Trạch, Hùng Cường, Thanh Hùng, Duy Trác, Elvis Phương, Anh Khoa... và cả những ca sĩ "học trò" của ông.
Nhạc lính Nguyễn Văn Ðông từng được thể hiện qua những giọng ca khác nhau, từ Thái Thanh, Lệ Thanh, Hà Thanh, Khánh Ngọc, Lệ Thu... đến Trần Văn Trạch, Hùng Cường, Thanh Hùng, Duy Trác, Elvis Phương, Anh Khoa... và cả những ca sĩ "học trò" của ông.
"Chiều mưa
biên giới" phù hợp với chất giọng "nam bộ" và làn hơi ấm áp
của nghệ sĩ Trần Văn Trạch, trong lúc "Khúc tình ca hàng hàng lớp
lớp" lại phù hợp với chất giọng Huế mềm mại, ngọt ngào của Hà Thanh
quyện với giọng ténor vang lộng của Hùng Cường (đến nay chưa có ca sĩ nào hát "hàng
hàng lớp lớp chưa về, hàng hàng nối tiếp câu thề..." hay hơn Hùng Cường).
Người nghe "Mấy
dặm sơn khê" qua giọng hát Thái Thanh và Hà Thanh đều nhận ra mỗi
giọng có cái hay riêng, có nét đẹp riêng trong cách thể hiện.
Hình tượng người lính chiến, khắc họa qua dòng nhạc Nguyễn Văn Ðông, như được "nâng" lên ở tầm mức cao hơn và đẹp hơn. Lý tưởng của những người trai anh dũng hiến thân vì tổ quốc như được tô đậm hơn; chính nghĩa của cuộc chiến đấu gian khổ của quân dân miềnNam như được soi sáng hơn.
Hình tượng người lính chiến, khắc họa qua dòng nhạc Nguyễn Văn Ðông, như được "nâng" lên ở tầm mức cao hơn và đẹp hơn. Lý tưởng của những người trai anh dũng hiến thân vì tổ quốc như được tô đậm hơn; chính nghĩa của cuộc chiến đấu gian khổ của quân dân miền
Người đời, qua đó,
thấy yêu mến và gần gũi hơn những người lính, thấy cảm kích và ngưỡng phục
những hy sinh cao cả và thầm lặng của người chiến binh vì nước quên mình. Vậy
thì không thể nào không cám ơn ông, cám ơn người nhạc sĩ đã gieo vào lòng người
những mối cảm xúc sâu đậm, những ấn tượng đẹp và sắc nét về người lính và đời
lính.
Chiến tranh đã đi qua, những bài nhạc lính như thế ngày nay ít còn được nghe hát, thế nhưng dư âm lời ca tiếng nhạc của một mùa chinh chiến ấy và hình tượng hào hùng của người lính chiến quân lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn đọng lại mãi trong tâm tưởng biết bao người, như câu nói bất hủ của một danh tướng Hoa Kỳ, Douglas MacArthur: "Những người lính già không bao giờ chết; họ chỉ nhạt mờ đi thôi" (Old soldiers never die; they just fade away").
Chiến tranh đã đi qua, những bài nhạc lính như thế ngày nay ít còn được nghe hát, thế nhưng dư âm lời ca tiếng nhạc của một mùa chinh chiến ấy và hình tượng hào hùng của người lính chiến quân lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn đọng lại mãi trong tâm tưởng biết bao người, như câu nói bất hủ của một danh tướng Hoa Kỳ, Douglas MacArthur: "Những người lính già không bao giờ chết; họ chỉ nhạt mờ đi thôi" (Old soldiers never die; they just fade away").
Sau bao mùa tang
thương dâu bể, sau bao nhiêu giông tố dập vùi, "người lính già"
Nguyễn Văn Ðông, ở độ tuổi 75, vẫn một niềm tin sắt son vào hồn thiêng sông
núi, vẫn chưa mất niềm tin vào vận mệnh đất nước, vẫn còn nguyên vẹn trái tim
chàng lính trẻ Nguyễn Văn Ðông-nặng trĩu tình quê tình nước-của những ngày đầu
bước chân vào đời quân ngũ.
Non nước ơi, hồn
thiêng của núi sông
kết trong lòng thế hệ
nghìn sau nối nghìn xưa...
(Mấy dặm sơn khê)
kết trong lòng thế hệ
nghìn sau nối nghìn xưa...
(Mấy dặm sơn khê)
"Nghìn sau
nối nghìn xưa", những
thế hệ tiếp nối những thế hệ, những bàn chân tiếp bước những bàn chân, rộn ràng
theo nhau lên đường đi xây lại những ước mơ chưa thành tựu của những người đã
nằm xuống cho một ngày mai tươi sáng về trên quê hương Việt Nam mến yêu.
"Mai sau dù có bao giờ", nghe lại những khúc hát về người lính và đời lính, những khúc hát của một mùa nào ly loạn, hẳn người đời vẫn còn nhớ tới những người hùng tên tuổi hay những chiến sĩ vô danh, những người con yêu của tổ quốc, những người "nhẹ xem tính mệnh như mầu cỏ cây" (2), những người đã hy sinh cả xương máu, đã hiến dâng cả tuổi trẻ, cả những năm tháng tươi đẹp nhất của đời người cho tình yêu đất nước.
"Chinh chiến đã qua một thì" (5), nhưng những bài hát về người lính anh dũng cầm súng chiến đấu để bảo vệ từng tấc đất quê hương, như những bài nhạc lính Nguyễn Văn Ðông, mỗi lần nghe lại là mỗi lần nghe dậy lên một niềm kiêu hãnh, một nỗi tự hào về một thiên anh hùng ca của dân tộc.
Cám ơn anh, người lính già, người nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông.
Lê Hữu
(1) Trả lời phỏng vấn, Hoàng Lan Chi (đài “ViệtNam hải ngoại”, WA. DC, 19/5/07)
(2) Chinh Phụ Ngâm Khúc, Ðặng Trần Côn/Ðoàn Thị Ðiểm
(3) Tây Tiến, thơ Quang Dũng
(4) Tống Biệt Hành, thơ Thâm Tâm
(5) Người Về, nhạc Phạm Duy
Nhạc Nguyễn Văn Đông hay, cuộc đời đầy thành quả đẹp và con người Nguyễn Văn Đông đáng phục, như anh Lê Hữu đã viết quá hay và đầy đủ, e không ai có thể viết hay hơn
Tôi cũng chỉ đồng ý với anh Lê Hữu mà thôi
Có một điều tôi nhận thấy là nhạc Nguyễn Văn Đông như sau:
"Mai sau dù có bao giờ", nghe lại những khúc hát về người lính và đời lính, những khúc hát của một mùa nào ly loạn, hẳn người đời vẫn còn nhớ tới những người hùng tên tuổi hay những chiến sĩ vô danh, những người con yêu của tổ quốc, những người "nhẹ xem tính mệnh như mầu cỏ cây" (2), những người đã hy sinh cả xương máu, đã hiến dâng cả tuổi trẻ, cả những năm tháng tươi đẹp nhất của đời người cho tình yêu đất nước.
"Chinh chiến đã qua một thì" (5), nhưng những bài hát về người lính anh dũng cầm súng chiến đấu để bảo vệ từng tấc đất quê hương, như những bài nhạc lính Nguyễn Văn Ðông, mỗi lần nghe lại là mỗi lần nghe dậy lên một niềm kiêu hãnh, một nỗi tự hào về một thiên anh hùng ca của dân tộc.
Cám ơn anh, người lính già, người nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông.
Lê Hữu
(1) Trả lời phỏng vấn, Hoàng Lan Chi (đài “Việt
(2) Chinh Phụ Ngâm Khúc, Ðặng Trần Côn/Ðoàn Thị Ðiểm
(3) Tây Tiến, thơ Quang Dũng
(4) Tống Biệt Hành, thơ Thâm Tâm
(5) Người Về, nhạc Phạm Duy
Nhạc Nguyễn Văn Đông hay, cuộc đời đầy thành quả đẹp và con người Nguyễn Văn Đông đáng phục, như anh Lê Hữu đã viết quá hay và đầy đủ, e không ai có thể viết hay hơn
Tôi cũng chỉ đồng ý với anh Lê Hữu mà thôi
Có một điều tôi nhận thấy là nhạc Nguyễn Văn Đông như sau:
Thường
người mình hay phân loại, tôi tạm dùng nhạc "nhạc tiền chiến" và
"nhạc phổ thông" (không
có đúng nghĩa hoàn toàn nhưng tôi tránh dùng chữ *"nhạc sang" và "nhạc sến" vì không thấy xuôi ... tai)
Các ca sĩ hát nhạc tiền chiến như Anh Ngọc, Duy Trác, Trần Thái Hoà, Thái Thanh, Mai Hương, Ý Lan ... thường không hát được hay những bản nhạc phổ thông như Những Đồi Hoa Sim (Dzũng Chinh-Hữu Loan)
Các ca sĩ hát nhạc phổ thông như Tuấn Vũ, Chế Linh, Hương Lan, Thanh Tuyền ... mà hát nhạc tiền chiến như Tiếng Chuông Chiều Thu (Tô Vũ) thì ... không xong rồi
Nhạc Nguyễn Văn Đông cả hai giới ca sĩ hát đều hay. Thí dụ Sắc Hoa Mầu Nhớ, Duy Trác hay Tuấn Vũ hát đều hay.
Đó là chưa kể những nghệ sĩ hát nhạc đặc biệt như Hà Thanh (chuyên hát nhạc Huế), Trần Văn Trạch (chuyên nhạc hài hước), Hùng Cường (chuyên hát cải lương) ... hát nhạc Nguyễn Văn Đông đều hay
Và do đó
thính giả thích nghe nhạc tiền chiến hoặc các thính giả thích nghe nhạc phổ
thông hoặc các thính giả thích các nhạc loại đặc biệt đều thích nghe nhạc
Nguyễn Văn Đông và đều thấy là hay
Đó là một
điểm son của NS Nguyễn Văn Đông, không thấy ai khác có, trong âm nhạc Việt Nam .
No comments:
Post a Comment