Những hên xui quanh số 13
Updated 3/22/2015
Hà Xuân Thụ
Mỗi khi con số 13 xuất hiện chúng ta thường quan tâm
đến những chuyện hên xui. Bài viết này muốn kể lại những may rủi rất lớn đã xẩy
ra cho gia đình tôi và bạn bè khi miền Nam VNCH bị Việt Cộng cưỡng chiếm ngày
30/4/1975:
1 - Bối cảnh Việt Nam trong tháng 4 năm 1975:
Sau khi tốt nghiệp Cao Cấp Chuyên Môn Hải Quân, tôi được bổ
nhiệm làm Huấn Luyện Viên ngay tại đơn vị vừa học xong đó là Trung Tâm Huấn
Luyện Bổ Túc Hải Quân Sàigòn. Có lẽ Đô Đốc Tư Lệnh Hải Quân Lâm Ngươn Tánh đã
ân thưởng cho, sau khi tôi 8 năm đi biển
liền tù tì, liên tiếp phục vụ trên nhiều chiến hạm như PCF 3858, WPB 713, HQ
06, HQ 802, HQ 500 và Hạm Trưởng HQ 610.
Hai tuần sau đó trường đã khai
giảng khóa 1/75 Cao Cấp Hải Quân các sĩ quan thụ huấn có Trung Tá Biểu (K13),
nhiều đàn anh khóa 14, 15, như ThiếuTá Dương Chỉ Hồng, Lương Văn Phước và nhiều
bạn khóa 16 như Vỏ Văn Á, Vững, Tiến, Vọng v.v..
Đầu
tháng tư 1975, lòng tôi nóng như lửa đốt đứng ngồi không yên khi hết Quảng Trị,
đến Đà Nẵng, rồi Qui Nhơn đã thất thủ. Tổng Thống Thiệu bổ nhiệm Phó Đề Đốc
Hoàng Cơ Minh làm tư lệnh chiến trường tại Nha Trang. Tôi lên phòng nhất BTL/HQ
gặp bạn Lý Thành Thông hỏi cách xin biệt phái ra Cam Ranh tử thủ mà không được,
nhưng cuối cùng tôi xin được một sự vụ lệnh đi theo khóa Cao Cấp Hải Quân ra
Phú Quốc làm trưởng trại tị nạn số 14.
Lúc bấy giờ đã có đến vài trăm
ngàn dân chúng miền Trung đổ xô về Phú Quốc, vừa đến nơi là tôi phải bù đầu với
muôn ngàn công việc cung cấp nơi ăn chốn ở cho hơn 2,000 đồng bào tị nạn của
trại. Vì quá bận bịu như thế tôi không có thì giờ để theo dõi Sàigòn và các
tỉnh lân cận từ từ mất dần và đất nước của miền Nam Việt Nam Cộng Hòa đã đến
hồi lâm tử.
Đến mãi buổi họp chiều 29/4 Đại Tá Thiện
tư lệnh vùng 4ZH vẫn còn trấn an chúng tôi, cho phát lương và tiền công tác
phí. Các trưởng trại bàn nhau góp tiền ra An Thới mở tiệc để kỷ niệm sau bao
ngày vất vả. Trong lúc nhậu nhẹt Thiếu Tá Dương Chỉ Hồng nói lớn đây là bữa
tiệc 13 người nhưng chẳng làm ai bận tâm, tôi uống đến say mèm và tài xế đã chở
về trại ngủ.
Sáng 30/4/75 tôi thấy một người vặn radio lên và nói “ Tổng
Thống Dương Văn Minh ra lệnh chúng ta đầu hàng, buông vũ khí, chờ tiếp thu”.
Tôi nghe radio mà bủn rủn cả người, trước mặt là rừng núi xanh um vì trại tị
nạn 14 của tôi nằm sâu trong đảo cách BTL vùng đến 7 kí lô mét. Làm sao bây
giờ, trốn vào rừng một mình hay sao, có ai chịu kham khổ đi theo mình trong khi
chung quanh tôi chỉ có Cảnh Sát và Quân Cảnh biệt phái !!!
Rất may lúc ấy anh tài xế GMC bước vào, bụng mừng thầm tôi
nói lớn chúng ta đi lãnh gạo và nhân tiện bỏ tôi xuống tại Bộ Tư Lệnh Vùng
để họp. Khi xe vào trong BTL vùng thì bãi biển An Thới đã ở ngay trước mặt, tôi
bước thẳng đến cầu tàu nhờ một anh Trung Úy thuyền trưởng PCF chở tôi lại gần
chiến hạm HQ 331 đang thả trôi.
Trên đài chỉ huy của HQ 331, Hạm Trưởng Phan Tấn Triệu đã thấy
tôi, anh cho người đón tôi lên đài chỉ huy và nói: trời, sao mày ra trễ quá vậy
tao sắp lên đường đi Singapore đây. Trên tàu đã có Phạm Xuân Kha và Nghiêm Doãn
Minh tụi nó mang theo gia đình, còn mày đi độc thân thì ở chung phòng với tao.
Tôi nói lời cám ơn vô cùng với Triệu đã cho tôi lên tàu và nói ngay để tao giúp mày tịch thâu hết tất cả
các vũ khí như súng lục cá nhân, dao, búa của dân tị nạn trên tàu hầu tránh
những bạo hành có thể xẩy ra. Triệu đồng ý ngay biệt phái cho tôi 5 thủy thủ. Kết quả chúng tôi đã vượt một hải trình tị nạn viễn dương 16 ngày rất xa và tuyệt đối bình an trên chiến hạm HQ 331.
Đoàn
tàu chúng tôi có 4 chiến hạm 230, 330, 331 và 602, trong lần di tản này có cả
Trung Úy Nguyễn Thế Duyệt (K19) làm Hạm Phó ở HQ330, riêng bạn Huỳnh Quang Hưng
(K16) có biệt danh Lucky lại chẳng Lucky tí nào, Hưng ở trên Tuần Duyên Hạm
HQ602 với Hạm Trưởng xui tận mạng Ngô Minh Dương như sau:
2.- Hên xui quanh tiệc 13 người với ba trưởng trại tị nạn:
Nhìn vào bản đồ thì hải trình tị nạn chúng tôi giống y như
cái móc câu khổng lồ, khởi hành ngay tại Phú Quốc đi qua Mã Lai vòng xuống đáy
là Singapore rồi vòng thẳng lên hướng Bắc Đông Bắc ngang qua Indonesia, Bornéo,
Philippines. Đoàn tàu chúng tôi bỏ neo hai ngày ở Singapore để bàn thảo đi tị
nạn ở Mỹ hay là Úc Châu. Sau cùng đã quyết định đi đến trại tị nạn Hoa Kỳ ở vịnh
Subic. Thời tiết tháng năm bấy giờ thật là lý tưởng, biển êm như ru, đoàn tàu
có đến ngàn người mà không một ai bị ói mửa hoặc say sóng chi cả.
Gần 4
giờ sáng ngày 8 tháng 5 có báo động Tuần Duyên Hạm HQ602 mất tích không còn
chạy theo đoàn nữa. Chúng tôi ngừng lại cả nửa ngày tìm kiếm vẫn không thấy tăm
hơi nên lại tiếp tục trực chỉ hướng Bắc Đông Bắc để đến Subic Bay. Ba ngày sau
chúng tôi nghe được tin radio phóng thanh từ Việt Nam cho biết thủy thủ đoàn
HQ602 nhớ vợ con nhà cửa, đã nổi loạn giết chết hạm trưởng Ngô Minh Dương lái
tàu trở lại Sàigòn.
Còn Hưng Lucky bị giam 7 năm ở
trại cải tạo, mãn hạn tù anh lại vượt biên nữa và hiện sống ở Ontario, Canada.
Hưng thiệt là xui xẻo hết biết, anh đã đến ngoại quốc rồi còn bị lôi trở về
Việt Nam lãnh thêm án tù 7 năm.
Thiếu Tá Dương Chỉ Hồng gần chiều tối
30/4 mới đem được toàn gia đình lên được một PCF do một Trung Úy làm thuyền
trưởng, để tránh bị lộ PCF đã im lặng vô tuyến tắt máy 46 và 25. Hồng nhờ
thuyền trưởng lái gần lại LST 505 đang thả trôi ngoài Vịnh An Thới do Trung Tá
Nhượng làm hạm trưởng đang đợi ghe của gia đình bạn là Tr/Tá Hãn. Khi PCF sắp
lại gần LST 505 thì Việt Cộng trong bờ bắn B40 ra.
Hạm trưởng Nhượng cho
tàu LST chạy ra xa hơn nữa có radio cho Tr/ Tá Hãn chạy theo. Vì PCF của Hồng tắt
radio nên không nghe được radio của ông Nhượng. Thiếu Tá Hồng tưởng rằng HQ505
bỏ đi không vớt nữa nên đã cùng anh thuyền trưởng đem PCF về Sàigòn. Dương Chỉ
Hồng bị đày Bắc, tù cải tạo 9 năm, cuối cùng Hồng và toàn gia đình cũng đã định
cư ở Mỹ.
Trên ghe của Trung Tá Hãn còn có toàn thể gia đình anh Võ Văn Á
cũng là một trưởng trại tham dự bữa tiệc đêm 29/4. Bạn Á và gia đình di tản qua
Mỹ từ năm 1975.
Vào một ngày của tháng Năm 1975 chúng
tôi đang đi dạo trong trại tị nạn Subic, bổng nhiên Phan Tấn Triệu chỉ cho tôi
giòng nhắn tin viết trên một dĩa cơm giấy treo ở cột điện “nhắn tin cho Hà Xuân
Thụ, em và hai con đã trên đường đi Guam”. Tôi mừng quá vội chia tay Triệu để bay qua
Guam và chỉ trong một thời gian rất ngắn gia đình chúng tôi đã định cư ở Mỹ. Đúng
là:
Giúp dân Việt Phật Trời ban phước
Cho vượt biên đoàn tụ vợ con
Tự do sung sướng cả đời
Tu nhân tích đức nhớ lời phật ban
Sau này chứng nhân là anh chị Võ Văn Á đã
kể lại rằng tôi thực sự
thoát chết trong ngày 30/4/75 mà không hề biết (sẽ đăng bài này trong
tháng Tư
của 40 năm viễn xứ )
Nhiều lần suy nghĩ tôi thấy mình đã may
mắn đến lạ kỳ nên chỉ biết cám ơn các đấng vô cùng thiêng liêng như Phật, Chúa
hoặc Thượng Đế. Tôi tự nguyện phải bố thí và càng phải tu nhân tích đức nhiều
hơn nữa để hưởng được những ân huệ vô cùng to lớn như trên.
Hà Xuân Thụ
9 Dec 2010
No comments:
Post a Comment