Tôi bị bắt ngày 5 tháng 4 năm 1976, trong cái trò bắt
người mà cộng sản gọi là “chiến dịch X2 đánh Văn Nghệ Sĩ phản động”. Chiến dịch
X1 trước đó “đánh” tư sản mại bản (tức những nhà tỷ phú người Việt và người
Việt gốc Hoa, đa số ở Chợ Lớn).
Có 3 nhà tỷ phú người
Việt bị bắt là cụ Hoàng Kim Quy (cựu Thượng Nghị Sĩ đệ nhị VNCH), hai anh em
vua tầu thủy Phạm Quang Khai và Phạm Quang Hoa.
Trước và sau tôi bị bắt
vài ngày có hơn trăm người gồm đủ bộ môn văn nghệ Miền Nam (Văn, Thơ, Báo chí,
Nhạc, Kịch, đạo diễn điện ảnh, đạo diễn Cải lương có đôi chút tên tuổi). Đa số
giam ở T20 (số 4 Phan Đăng Lưu bên hông chợ Bà Chiểu, Gia Định) vài người đi
khám Chí Hòa.
Khoảng mười tháng sau một số lớn được
tha về, chỉ còn mươi người bị quy kết tội “có nợ máu nhân dân” và “chống cộng ở
thượng tầng kiến trúc” bị giữ lại. Đây là những “tội” có thể đưa tới tử hình.
Sau hai năm tra vấn hỏi cung xong, họ đưa bọn tôi lên trại Gia Trung (xứ sương
mù Pleiku) nằm trong khu rừng già, nghe nói trước đây là mật khu của Việt cộng,
để lao động khổ sai.
Tưởng cũng nên kể ra đây tôi là
người trong giới Văn nghệ đầu tiên, mới nhập trại đã bị tống ngay vào “biệt
giam” (cachot) khu B1, phòng 11 trại Phan Đăng Lưu. Có lẽ họ tưởng tôi là nhân
vật quan trọng, là tay sai của CIA được dựng lên làm Chủ tịch Nghiệp Đoàn Ký
Giả Việt Nam hoạt động trong báo giới. Vì ngoài Bắc chức vụ này “to” lắm, do
đảng đưa ra và quyền hạn cũng như quyền lợi ngang bộ trưởng.
Trong cùng
dẫy biệt giam khu B1 có những nhân vật tên tuổi như Thượng Tọa Thích Huyền
Quang, Thượng Tọa Thích Quảng Độ, Linh mục Đỗ Bác Ái, Tiến sĩ Mai Văn Lễ (cựu
Khoa trưởng Khoa Luật đại học Huế), Luật sư Nguyễn Hữu Doãn, Luật sư Nguyễn
Khắc Chính, Nhà văn Doãn Quốc Sỹ, Nhà báo Hồ Văn Đồng, Nhà báo Như Phong Lê Văn
Tiến, Nhà văn Nhà báo (nguyên dân biểu) Hồ Hữu Tường.
Những
người này lần lượt vào biệt giam sau tôi 1, 2 tuần. Đầu dẫy khu biệt giam buồng
số 1 là “tướng phục quốc Nguyễn Việt Hưng”. Tôi rất tiếc khi đó không biết
nhiều về nhân vật này. Ông là người đầu tiên cầm đầu một số dăm bẩy người trấn
trong nhà thờ Vinh Sơn (đường Trần Quốc Toản) đánh CS với vài vũ khí thô sơ,
khi CS vào Saigon mấy tháng.
Sau đó ông bị CS xử bắn. Vụ “vùng lên” khởi
đầu chống đối CS này đã gây tiếng vang rộng lớn làm trấn động dư luận khắp nước
khi đó. CS phải điều động bộ đội công an cảnh sát vây hãm quanh khu vực Nhà Thờ
mấy ngày liền mới trấn áp được.
Tôi nghĩ chúng ta thật
vô tình khi ở ngoài này, trải qua mấy chục năm, không thấy một ai nhắc nhở tới
ông (người được gọi là tướng Nguyễn Việt Hưng mà dư luận khi đó đồn đãi là biệt
danh của Tướng NCK hoặc Tướng cảnh sát NNL ở trong mật khu lãnh đạo cuộc chiến
đấu với rất nhiều “hồ hởi phấn khởi”).
Theo tôi đây là người chiến sĩ
quốc gia can trường bất khuất, dám đứng ra chống CS ngay từ ngày đầu, chúng ta
nên tỏ bầy lòng ngưỡng mộ và khâm phục.
Phía sau dẫy
biệt giam B1 là dẫy biệt giam B2 có giáo sư Vũ Quốc Thông, ông chủ nhiệm nhật
báo Lẽ Sống Mới Ngô Công Minh (vào đầu năm 1975 làm phụ tá Tổng Trưởng Thông
Tin), ông Tống Đình Bắc, Trưởng ty Công an nổi tiếng sát cộng Miền Tây, ông chủ
Nhà sách Khai Trí và một vài người nữa từng giữ chức vụ cao chế độ cũ.
Riêng
ông Ngô Công Minh sau khi lên trại tù lao động Gia Trung với chúng tôi hơn
tháng thì CS đưa ông đi nơi khác. Từ đó không ai biết tin tức về ông.
Có dư luận nói ông bị đem thủ tiêu vì mấy tay tổ văn nghệ,
báo chí CS (từng quen biết ông trước kia) muốn cướp không ngôi nhà lớn của ông
ở Saigon và vàng bạc của cải.
Theo tôi, ông không phải nhà hoạt động
chánh trị, chỉ là nhà báo thuần tuý nên không thể bị sát hại vì lý do chánh
trị. Khi tù về tôi có dò hỏi tin tức ông nhưng không ai biết một cách chính
xác.
Trong thời gian “nằm” biệt giam tôi cũng có vài
việc để nhớ xin kể ra đây. Cứ mỗi tháng tù biệt giam được cho ra ngoài cắt tóc.
Bọn “thế nhân” chúng tôi tất cả đều bị “gọt” trọc đầu, kể cả vị Linh mục, nhưng
với hai vị Thượng Tọa Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ thì cai tù lại bắt để
tóc.
Hai cụ phản đối, cai tù thản nhiên: “Đó là chính sách Nhà nước!”.
Việc thứ hai là vì biệt giam mới làm chưa lắp ống dẫn nước nên mỗi ngày chúng
tôi chỉ được từ hai tới ba phút vòi nước ở ngoài thọc vào để làm vệ sinh.
Tôi không biết nên thản nhiên chà xà bông gội đầu (bằng xà
bông giặt). Đang làm nửa chừng vòi nước rút ra mặc cho tôi nài nỉ. Báo hại đêm
đó đầu tôi bị xà bông làm ngứa ngáy khó chịu không tài nào nhắm mắt ngủ yên
được.
Cũng vì “nước” tôi phải tự “tranh đấu” với mình mãi mới nuốt xong
phần cơm tù. Tôi chỉ có 2 cái tô nhựa: một dùng đựng cơm, một dùng đựng canh.
Vì phải chứa nước làm vệ sinh (khi đi cầu) tôi nhịn tắm lấy nước chứa vào cái
tô lớn mầu xanh.
Trong khi đi “làm việc” (hỏi cung) tôi
viết mấy chữ bằng bút chì dặn anh tù hành sự để cơm vào nửa tờ giấy báo cũ, còn
canh để vào tô nhựa mầu đỏ. Nhưng anh ta đổ hết nước trữ đi, để cơm canh vào 2
cái tô và đặt ngay trên bệ cầu tiêu chưa được dội nước còn nồng nặc mùi phân
của mình.
Tôi ngồi hơn nửa tiếng đồng hồ nhìn hai tô cơm canh muốn ứa
nước mắt tự “tranh đấu” với mình. Ăn hay nhịn? Nếu ăn, khó nuốt trôi miếng cơm
vì tởm lợm. Nhưng nếu không ăn sẽ bị đói tới trưa hôm sau. Tôi lại mắc chứng
đau dạ dầy từ ngày CS chiếm Saigon nên sẽ khốn khổ lắm. Cuối cùng tôi đành nhắm
mắt nuốt vội chút cơm canh lạnh ngắt với hai hàng nước mắt.
Tôi bị nhốt biệt giam hơn 10 tháng, vào một buổi sáng trời
âm u, được gọi tên mang đồ ra khỏi buồng giam. Phía chéo buồng giam, tôi liếc
nhìn thấy nhà văn Duyên Anh để mặt sát ô vuông cánh cửa sắt phòng giam tập thể
hướng về phía tôi nói khá lớn: “Nhớ ghé nhà tao nói với vợ tao…”. Tôi chỉ nghe
được tới đây thì bị viên cai tù nạt nộ cấm nói. Thì ra Duyên Anh tưởng tôi được
tha về nhờ tôi tới nhà nhắn tin vợ.
Khi đi đến trước sân “nhà khách”trại
giam tôi thấy vài người quen ngồi đó với đồ đạc cá nhân lỉnh kỉnh. Chúng tôi
chỉ đưa mắt chào nhau. Mấy phút sau họ điểm danh từng người xong còng tay lại
đưa lên chiếc xe hơi bít bùng chuyển về cơ quan An ninh nội chính (Nha Công an
thành phố Saigon cũ đường Trần Hưng Đạo).
Cùng trên
chuyến xe có tiến sĩ Mai Văn Lễ, thạc sĩ Vũ Quốc Thông, ông Tống Đình Bắc và
một vài người nữa (giờ tôi quên mất tên). Trong lúc ngồi ngoài sân cơ quan chờ
làm thủ tục gì đó, các bạn tù của tôi bàn cãi sôi nổi về dự đoán chúng tôi được
đưa lên đây làm giấy tờ tha.
Có vị còn “cá” một chầu ăn uống linh đình ở
Chợ Lớn. Rồi lần lượt từng người được gọi tên đem hành lý đi vào phòng…biệt
giam! Tôi được gọi tên sau chót (may mắn cho tôi vì biệt giam hết chỗ(?) – viên
công an tiếp nhận tù nói vậy) nên được nhốt vào khu tập thể A (làm từ thời
Pháp).
Gần 100 người đủ thành phần già trẻ lớn bé, tư
sản, chính trị gia, Linh mục, Mục sư, Thượng tọa, Đại đức, trộm cắp, buôn lậu,
nhốt chung trong một phòng dài trên 10 mét, bề ngang nhỏ hẹp, u tối, ẩm ướt,
thiếu ánh sáng và khí trời. Phòng có 2 “sàn”, sàn trên cao khoảng một mét.
Mỗi người được cấp manh chiếu rách cáu bẩn, nồng nặc mùi chua mồ hôi người tích
tụ lâu năm đã kết thành “cao”. Ở trên tôi nói may mắn không phải vào lại biệt
giam vì mấy tháng sau anh Mai Văn Lễ được thả khỏi biệt giam vào phòng tôi kể
cho nghe thảm cảnh trong buồng biệt giam anh đã “chết trong cõi sống” mấy tháng
qua.
Buồng biệt giam Sở An ninh nội chính được xây từ
thời Pháp thuộc có tuổi đời trên mấy chục năm. Tường bẩn thỉu lam nham dầy cáu
bẩn đen đúa, sàn xi măng ẩm ướt quanh năm. Mùi mồ hôi, mùi phân nước tiểu người
tích tụ bao năm tạo thành một thứ mùi hôi hám khó tả, ngửi phải muốn nôn ọe
ngay.
Khủng khiếp nhất là cái cầu tiêu đã nứt nẻ và vỡ nhiều mảnh, mỗi
khi trời mưa nước từ trong lỗ cầu dâng lên tràn lan khắp buồng với những cục
phân chưa tiêu hủy. Nếu mưa lâu khoảng một giờ nước cầu tiêu dâng ngập buồng
giam hơn gang tay, tù chỉ còn biết đứng dựa vào tường chờ cho nước rút hoặc ngủ
đứng.
Và khi nước vừa rút hết, sàn si măng còn ẩm ướt,
tù mới ngả lưng nằm thì một hai chú chuột cống khá to, lông lởm chởm ghẻ lở
khắp mình trông dơ dáy khủng khiếp chui lên từ miệng cầu, thản nhiên gặm bàn
chân tù, đạp đuổi nó cũng cứ gan lỳ không chạy! Có lẽ từ lâu nó sống bằng xương
thịt tù bị chết chưa kịp mang đi. Anh Mai Văn Lễ kết luận: “Đúng là tầng chót
địa ngục trần gian, có một không hai trên thế giới!”.
Tôi được biết Linh
mục Hoàng Quỳnh, người lãnh đạo giáo dân khu Bùi Chu Phát Diệm nổi tiếng chống
CS bằng vũ lực hồi còn ngoài miền Bắc. Linh mục bị bắt từ ngày đầu tháng 5.
1975, bị giam và chết trong “tầng chót địa ngục trần gian” này. Khi họ đem xác
Linh mục đi trên cái băng ca, thân thể teo tóp gầy đét bé nhỏ như đưá trẻ lên
10.
Sau hai ngày đêm 15 chiếc xe vận tải lớn, trước
đây dùng chở heo, chở mấy trăm tù ngồi bó gối trên sàn xe chật cứng nhúch nhích
cánh tay cũng không được. Với bao gian khổ đói khát trên con đường dài mệt lả
người, chập choạng tối chúng tôi tới trại tù lao động cải tạo Gia Trung (thuộc
tỉnh Pleiku) nằm trong khu rừng núi hoang vu.
Nghe nói nơi này khi trước
là mật khu của CS. Trại Gia Trung lúc bọn tôi tới đã có 3 trại giam, mỗi trại
cách nhau khoảng cây số. Trại nào cũng đầy nhóc người: từ 700 tới 1000. Tù đa
số là các viên chức cấp nhỏ, địa phương quân, nhân dân tự vệ và đông nhất vẫn
là tù hành sự từ các nơi đưa tới, có án hoặc chưa có án. Có cả tù chưa đến 10
tuổi, đói quá liều ăn tô bún riêu ở chợ không tiền trả bỏ chạy bị bắt.
Những nỗi đói khổ nhục nhã, sống cuộc đời trung cổ, sách báo
đã nói nhiều từ hơn 30 năm, tôi xin miễn kể ra đây. Sự khổ sở nhục nhã chúng
tôi còn có thể chịu đựng được. Nhưng cái khủng khiếp nhất đối với chúng tôi là
sự vô vọng ngày trở về đoàn tụ với gia đình, với đời sống ngoài xã hội.
Bọn cai tù bắt chúng tôi “học tập” chính sách Nhà nước là đem vợ con lên vùng
đất tù đầy này cuốc đất trồng khoai sinh sống (như ngoài Bắc đã thực hiện).Tất
nhiên chúng tôi không thể làm theo họ. Chúng tôi sẵn sàng hy sinh đời mình chứ
không thể để vợ con đã khốn khổ phải gánh thêm tội.
Trong
những năm tháng không tên dài dằng dặc như bao thế kỷ sống như cây cỏ như súc
vật, chúng tôi hết cả hy vọng hết cả chờ mong thì có những tin tức như những
làn gió mát mang theo hơi sống tới: tin đồn về chương trình HO, người Mỹ sẽ cứu
chúng tôi đem sang Mỹ.
Trong thời gian này các con tôi gửi thư cho tôi
nói bóng nói gió là hai hội Văn Bút Quốc Tế và Việt Nam đang ráo riết can thiệp
vận động cho anh em cầm bút chúng tôi. Và các con tôi cũng báo tin có nhận được
“quà” của hai hội gửi.
Thời gian này bọn tù chúng tôi
“hồ hởi phấn khởi” lắm. Chỗ nào cũng bàn tán về chương trình HO (mỗi người tán
một kiểu toàn có lợi cho mình) với bao hy vọng tốt đẹp. Và chúng tôi cũng hết
lời ca ngợi Tổng Thống Carter – vị ân nhân vĩ đại – sẽ lập cầu Không vận đưa
chúng tôi từ VN qua Mỹ sống một đời ấm no tự do tươi sáng.
Tôi cũng nghe
nói tới tên một bà lúc ấy còn rất xa lạ với chúng tôi: bà Khúc Minh Thơ. Biết
bao giai thoại đồn đại thêu dệt về bà được dựng lên. Qua câu chuyện và lời bình
luận của anh em tù, tôi có cảm tưởng bà Khúc Minh Thơ như một bà tiên đang cầm
cây đũa thần giúp chúng tôi từ vực thẳm lên.
Rồi ngày
tháng tiếp tục lặng lẽ trôi qua, tất cả mọi việc vẫn như cũ không có biến
chuyển gì xẩy ra, chúng tôi lại tiếp tục buồn nản thất vọng lê cái thân tù đầy
mòn mỏi héo hắt trong quốc nạn khổ sai. “Mong nhưng không đợi không chờ” như
câu thơ của Giáo sư Vũ Quốc Thông làm và đọc cho tôi nghe.
Sau gần 10
năm thân thể rã rời hư hao chỉ cỏn bộ da bọc xương, tinh thần suy sụp chán nản chẳng
còn gì để mong để chờ và cũng hết cả “cú” tha bất ngờ thì anh Doãn Quốc Sỹ được
gọi tên tha, năm sau anh Hồ Văn Đồng rồi thời gian sau nữa là giáo sư Vũ Quốc
Thông. Những người này được tha về làm sự hy vọng tưởng tắt ngấm trong chúng
tôi lại lóe lên, dù là ở cuối đường hầm mù mịt.
Có lẽ
do nguồn từ gia đình ký giả Cao Sơn lên thăm nuôi nói đài VOA vừa loan tin tôi
và họa sĩ CHÓE (Nguyễn Hải Chí) hiện bị giam tù ở trại Gia Trung, Pleiku. Thế
là ầm cả trại đến nỗi viên quản giáo đội tôi cũng tò mò hỏi anh tù nấu nước có
biết tôi không và hiện ở đội nào (vì đài VOA chỉ loan bút hiệu của tôi nên anh
ta không biết).
Báo hại tôi từ khi có tin này không được tự động đi gánh
phân người từ trại ra ngoài đồng nữa. phải về đội cuốc đất chặt cây đào mương
như mọi anh em tù khác. Gánh phân tuy có vất vả bẩn thỉu hôi hám mất vệ sinh
thật nhưng chỉ nửa buổi là “thanh toán” xong các hố xí.
Thời gian còn lại thoải mái xuống suối tắm giặt và đi “va tạt linh tinh”
kiếm củ khoai mì hay vài cọng rau lang “cải thiện”cho “ấm” cái bụng thường trực
rỗng. Nếu tôi nói đã hơn một lần “tự động” ăn…phân người, có lẽ nhiều người
không tin cho là tôi nói quá để kể khổ thân phận tù đầy dưới chế độ cộng sản.
Lần thứ nhất quãng hơn 10 giờ, tôi vừa đói vừa khát ghé vào chỗ chòi đun nước uống
của đội để uống nước. Anh bạn được phân công đun nước, nguyên đại úy cảnh sát
quốc gia, vốn quý mến tôi, thấy tôi đến, anh mắt nhìn chỗ khác nhưng miệng nói
nhỏ: “bác đi tới phía bụi cây bên trái”.
Tôi biết là
“có gì” rồi. Tới nơi nhìn vào trong bụi cây tôi thấy nửa trái dưa chuột nhỏ.
Tôi cầm lên bỏ vào miệng nhai liền. Có lẽ trong đời tôi chưa bao giờ ăn miếng
dưa chuột ngon đến thế (tôi vốn không thích ăn dưa chuột).
Vừa nuốt xong
nửa phần dưa chuột tôi chợt nhớ ra, ngừng nhai, tiến lại chỗ anh bạn đun nước,
nói: “Này ông ơi, có phải trái dưa này “tẩm” phân người?”. Anh bạn gắt nhẹ: “Đã
bảo, bác cứ ăn đi, không chết đâu mà sợ!”. Nghe anh bạn nói, tôi biết mình đã
lỡ ăn rồi (hơn nữa cũng tại đói) nên tiếp tục cố nhai và nuốt nốt phần dưa
chuột còn lại.
Nguyên do thế này. Trong vườn ươm giống
của đội trồng rau có một dàn dưa chuột. Khi dưa mới kết trái to hơn ngón tay đã
bị tù (và cả cai tù) hái trộm ăn hết nên ban giám thị trại tù ra lệnh lấy phân
tươi của người hòa với nước rồi hàng ngày quết vào những trái dưa chuột cho hết
bị trộm. Nhưng tù vẫn hái trộm ăn sau khi rửa sơ qua.
Thế là lần thứ
nhất tôi ăn phân người. Lần thứ hai thì chính do tôi (và mấy ông bạn) chủ động
ăn phân người. Tôi và mấy “đồng sự” được “bố trí” dọn phân cầu tiêu các phòng
giam. Một số anh em tù hình sự ra ngoài đồng làm việc đã hái và ăn tươi nuốt
sống các trái bắp.
Vì ăn trộm nên không kịp nhai (sợ
cai tù thấy) các bạn tù hình sự cứ thế mà nuốt. Bắp già hạt cứng dạ dầy không
tiêu nổi, hôm sau đi cầu ra nguyên cả hạt. Chúng tôi lúc đầu còn sợ bẩn sợ hôi
và bệnh nhưng sau khi sôi nổi “bàn thảo”, chúng tôi đi tới việc lấy những hạt
bắp này đem ra suối rửa, luộc hai ba lần cho hết mùi hôi rồi ăn một cách ngon
lành thoải mái! Nhiều bạn tù biết chuyện cũng xin ăn ké.
Tôi được “ấm
bụng” ít ngày thì bị “ngưng công tác” (vì tin đài VOA loan?). Đó là hai dấu ấn
khủng khiếp trong trại tù cho tới ngày hôm nay, mỗi khi nghĩ tới tôi vẫn không
khỏi rùng mình tự hỏi không hiểu sao mình lại có thể “ghê gớm” đến thế!.
Đầu năm 1985 tôi bất thần được gọi tên tha về cùng một số
anh em quân nhân. Ngoài tôi không có thêm tên anh bạn văn nghệ sĩ nào. Các anh
mừng cho tôi thì ít, lo lắng chán nản thất vọng cho mình thì nhiều. Viên quản
giáo trở nên tử tế với tôi, gã chạy vào phòng nói: “Mừng cho anh nhé. Có thuốc
men gì cho tớ xin.”.
Tôi cho gã mấy viên thuốc cảm, gã đòi lấy hết nhưng
tôi không cho để cho anh em tù nghèo không thăm nuôi. Trại tù phát cho chúng
tôi 50 đồng tiền đi xe, trong khi giá xe về Saigon 150 đồng. Đi bộ từ trại tù
ra tới quốc lộ 25 gần 5 cây số.
Chúng tôi phải nài nỉ
mãi bà chủ xe đò mới “thông cảm” lấy 50 đồng. Xe đầy nhóc người ì ạch chạy như
rùa bò trên con đường vòng vèo dốc núi cheo leo đầy bất trắc, nguy hiểm. Tôi và
ba anh tù đi cùng chuyến xe không một đồng bạc dính túi, phải nhịn đói nhịn
khát hai ngày đêm liền cho tới khi về tới nhà ở Saigon.
Một anh có “sáng
kiến” đem bộ quần áo tù mới tinh được trại tù phát khi tha, gạ bán cho mấy
người trên xe để lấy tiền ăn, nhưng đều bị từ chối vì ai cũng sợ xui khi mặc đồ
tù.
Rời nhà tù nhỏ ra nhà tù lớn sống mấy năm thì
“phong trào HO” nở rộ và tên tuổi bà Khúc Minh Thơ được anh em tù về hết lời ca
ngợi công đức. Bà là ân nhân của tù cải tạo. Tôi vì nghèo, tiền ăn không có lấy
đâu ra vàng đút lót hối lộ để được đi HO.
Nhưng nghe theo lời các bạn
đồng nghiệp cũ may mắn thoát sang Mỹ trước, viết thư về khuyên tôi cứ đến đường
Nguyễn Du nộp đơn kèm theo những giấy tờ can thiệp (từ trước tới nay) của các
tổ chức như Hội Văn Bút Quốc Tế, Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, Liên Đoàn Ký
Giả Quốc Tế, Hội Nhân Quyền vv…
Nhưng tất cả đều vô
vọng. Lần nào cũng vậy, hai lần, tôi “ôm” hồ sơ xin xuất cảnh tới Sở Ngoại Vụ
đường Nguyễn Du đều được các viên chức hữu quyền (công an CS) trả lời dứt
khoát: “Nhà Nước không có chính sách cho anh xuất cảnh. Bọn lính cũ không có
súng ống đâu còn đánh được chúng tôi nhưng với bọn anh chỉ một cây viết vẫn có
thể chống phá chúng tôi như các anh đã làm trước đây.
Anh nên biết bên
đó bọn báo chí phản động nhiều như nấm”. Thế là con đường sống bị triệt. Hết hy
vọng, hết chờ mong. Tôi đành sống kiếp mạt rệp – một thứ công dân hạng bét –
ngay trên quê hương đất nước mình.
Nhưng tới cuối năm
1989 tôi được anh bạn nhà văn Hoàng Hải Thủy từ Mỹ gửi thư về báo cho biết tôi
và Nhà văn Uyên Thao được bà Khúc Minh Thơ, chủ tịch Hội Bảo Vệ Gia Đình Tù
Nhân Chính Trị Việt Nam đã tận tình can thiệp với Bộ Ngoại Giao Mỹ để chúng tôi
được sang Mỹ định cư.
Chính Hoàng Hải Thủy sốt sắng giới thiệu hai chúng
tôi với bà Khúc Minh Thơ và cộng tác mật thiết với bà trong công việc vận động.
Con đường hy vọng, con đường sống, lại mở rộng trước mắt tôi.
Buổi tối ngày 18 tháng 5 năm 1999 tôi lên máy bay giã biệt
quê hương tăm tối sang Mỹ định cư. Tôi lại được sống lại dưới bầu trời tự do
dân chủ tại Miền Nam Việt Nam trước năm 1975. Tuy nhiên nhiều đêm vẫn giật mình
thức giấc vì những ám ảnh não nề của những năm tháng tù đầy.
Thanh Thương Hoàng, 13 April 2012
Thanh Thương Hoàng, 13 April 2012
No comments:
Post a Comment