Châu Đình An viết về Phạm Duy
Trích từ Trịnh N. Toàn's email:
Nghệ Sĩ sống đời thường cũng phải lo
sinh kế, có lẽ đây là lý do sau này con số ca nhạc sĩ về lại VN càng ngày càng
nhiều. Thêm nữa đã mang nặng nghiệp, người nghệ sĩ luôn cần ánh đèn sân khấu
cùng đông đảo khán thính giả...
Đây cũng là nhận định của nhạc sĩ Châu Đình An (với
"Đêm chôn dầu vượt biên" nổi tiếng) viết về nhạc sĩ Phạm Duy. Một bài
viết với đôi ba nhận định khá sâu sắc về gia đình cố nhạc sĩ Phạm Duy. Mời đọc & tuỳ nghi thẩm định. TNT.
Phạm Duy:
Còn gì đâu trong cuộc được thua
Tháng 4 năm 1981 tôi bước chân xuống phi
trường Los Angeles, California trong bỡ ngỡ của một “dân giả quê mùa” lần đầu
tiên đặt chân đến thành phố sầm uất nổi tiếng của Hoa Kỳ. Đang long ngóng thì
có tiếng reo “A! đây rồi…”. Một người đàn ông ăn bận giản dị, chân đi dép và
mái tóc hoa râm đến bên tôi “Phải An không?”.
Tôi nhận ra nhạc sĩ Phạm Duy,
ông dẫn tôi đến bên chiếc xe Buick cũ đời 1977 màu cam nhạt, cất hành lý vào
khoang xe và trực chỉ về nhà ông ở Midway City, Quận Cam Cali. Trên đường đi từ
Los Angeles đến Midway City vào khoảng gần 1 tiếng lái xe, ông hỏi thăm tôi về
cuộc sống mới đến Mỹ ra sao, và một vài chi tiết thân thế long đong của tôi.
Quen biết ông qua sự giới thiệu của cựu
dân biểu VNCH Nguyễn Văn Cội, và khi tôi gửi đến ông 10 ca khúc để nhờ ông giúp
thực hiện một băng nhạc Cassettes. Những bài nhạc tôi viết từ trại tỵ nạn Hồng
Kông cho đến khi qua định cư ở Kenosha, Wisconsin Hoa Kỳ vào tháng 10 năm 1980.
Trong đó có những bài như Đêm Chôn Dầu Vượt Biển, Tâm Động Ca, Như Những Lời Ca
Thép, Trại Tù Chữ S, Sẽ Có Sáng Mai Này, Như Một Lời Thề Nguyền…
Khi nhận được 10 bài nhạc,
ông đã nhanh chóng hồi âm sau hai tuần lễ và một cuộc nói chuyện với ông dẫn
tôi đến Los Angeles, mà tôi đâu biết đã bắt đầu đưa tôi bước chân vào giới nghệ
thuật. Qua thư trao đổi, ông khen nhạc tôi có nét lạ của một người vừa vượt
thoát từ Việt Nam sau 5 năm dưới chế độ cộng sản, và ông nhận lời đứng ra làm
Producer, nghĩa là nhà thực hiện và sản xuất cho băng nhạc đầu tay trong đời
sáng tác của tôi.
Bước chân vào căn nhà xinh xắn ở Midway
City, tôi được chào đón bởi bà Thái Hằng, phu nhân của ông với một nụ cười hiền
hậu, bà vui vẻ, dễ thương ân cần hỏi han và chỉ tay trên vách phòng ăn một bức
hình tôi ở đấy. Ngạc nhiên thì bà bảo là “bác trai dán hình cháu để nhận diện
đi đón cho dễ, mấy em ở nhà cứ thì thầm với bác là, có lẽ đây là con rơi hay
sao mà bố lo lắng ân cần quá!” Mà cũng dễ nghi lắm, vì khuôn mặt tôi và Duy Minh
có phần giống nhau lắm.
Tôi cười và cảm thấy gần gũi
ngay với không khí gia đình ông bà Phạm Duy. Đến chiều Duy Quang đi làm về,
lịch thiệp trong quần Jean và áo sơ mi trắng, nụ cười hiền hậu, Duy Quang thiện
cảm chào tôi. Chúng tôi bắt tay nhau và Quang hỏi đã ăn uống gì chưa rồi không
đợi tôi trả lời anh đưa tôi ra xe bảo là đi uống cà phê và thăm phố Bolsa cho
biết cộng đồng mình. Mặc cho bà Thái Hằng căn dặn là chiều về ăn cơm cả nhà.
Đó là những kỷ niệm đầu tiên của tôi với
gia đình nhạc sĩ Phạm Duy mà tôi còn nhớ. Đến chiều về, cả nhà đông đủ, lần đầu
tiên tôi dự bữa cơm gia đình gồm có ông bà Phạm Duy và các con Quang, Minh,
Hùng, Cường, Hiền, Thảo, Đức, Hạnh, 10 người ăn và thêm một miệng mới nữa là
tôi. Bữa cơm rất ngon vì vui, và từ lâu tôi chưa hề có cái không khí gia đình,
thân mật, ấm cúng.
Là một gia đình nghệ sĩ, các
con của nhạc sĩ Phạm Duy nói chuyện thoải mái, đùa cợt với bố mẹ, nhưng vẫn có
sự kính phục. Đây là một gia đình Bắc Kỳ chính hiệu có truyền thống và nề nếp.
Cho dù 4 chàng con trai (Quang, Minh, Hùng, Cường) và 2 cô con gái (Hiền, Thảo)
đã trưởng thành, nhưng vẫn ở chung với bố mẹ. Nhà nhỏ, nhưng ngăn chia nhiều
phòng, có phòng thì hai người, chỉ riêng Duy Quang có riêng một phòng lớn là
cái gara để xe trưng dụng thành phòng ngủ, và Duy Cường có một phòng riêng vì
bận làm hoà âm cho nhạc.
Ngoài công việc đi làm thường ngày, nhạc
sĩ Phạm Duy và các con vẫn dựng lại ban nhạc The Dreamer và mỗi cuối tuần chơi
nhạc tối thứ sáu, thứ bảy tại vũ trường ở Quận Cam thời bấy giờ.
Tôi ngụ lại nhà nhạc sĩ Phạm
Duy suốt thời gian hai tuần lễ thực hiện thu âm cho dĩa nhạc, phải nói là ông
rất chu đáo về tổ chức, ngày nào thu thanh ai hát, xem lại bài nhạc, xem lại
hoà âm, và cuối cùng, trong tay chúng tôi có dĩa master nhạc Châu Đình An, và
thời bấy giờ Master băng rất to, đến hai dĩa băng nhựa nặng tay.
Nhạc sĩ Phạm Duy liên lạc với hoạ sĩ Hồ
Đắc Ngọc vẽ cho tôi cái bìa băng Cassettes, chở tôi đến nhà in AnNam của ông Lê
Ngọc Ngoạn để xem giá cả và ấn loát, những buổi đi làm việc như thế chỉ có ông
và tôi trên chiếc xe cũ của ông băng qua những con đường trong sương mù buổi
sáng, và trong xe thì luôn phát ra các ca khúc mới toanh của tôi. Bạn tưởng
tượng xem, tôi hạnh phúc và ngây ngất như thế nào bên một nhạc sĩ lừng lẫy nghe
nhạc của tôi mới ra lò. Ông còn thủ bút viết cho tôi những lời sau:
“Nhạc Châu Đình An vì có
nội dung rất tích cực, hy vọng sẽ là người đại diện cho những ai vừa vượt thoát
từ Trại Tù Chữ S, sẽ có ngày trở về dựng cờ Quốc Gia trên đất nước thân yêu”.
Ký tên Phạm Duy
Ông không ngần ngại khen ngợi nhạc tôi
viết hay, và ca khúc của tôi nhan đề Tâm Động Ca do Thái Hiền trình bày đã làm
ông xúc động rưng rưng khoé mắt, lời bài hát tôi viết sau 5 năm tả tơi trong
chế độ mới từ 1975 đến 1980:
“Khóc cho người ở lại Việt
Nam
Một tiếng khóc thương cho đồng loại
Một tiếng khóc thương em khờ dại
Một tiếng khóc nhăn nheo mẹ già
Có tổ quốc, mà không có quê hương
Có đồng bào mà sao xa lạ
Có Việt Nam mà tôi mất đâu rồi
Có giòng sông mà con nước khô cạn
Có tình yêu mà không có bè bạn
Đứng bên này bờ biển đại dương
Nhìn chẳng thấy quê hương chỗ nào
Nhìn chỉ thấy thêm thương đồng bào
Lời tổ quốc trong tim dạt dào
Và nghe tiếng trong tôi thì thào
Giọt nước mắt lưu vong chợt trào
Tạm biệt Tổ quốc thương yêu… Của tôi”
(CDA
1980)
Một tiếng khóc thương cho đồng loại
Một tiếng khóc thương em khờ dại
Một tiếng khóc nhăn nheo mẹ già
Có tổ quốc, mà không có quê hương
Có đồng bào mà sao xa lạ
Có Việt Nam mà tôi mất đâu rồi
Có giòng sông mà con nước khô cạn
Có tình yêu mà không có bè bạn
Đứng bên này bờ biển đại dương
Nhìn chẳng thấy quê hương chỗ nào
Nhìn chỉ thấy thêm thương đồng bào
Lời tổ quốc trong tim dạt dào
Và nghe tiếng trong tôi thì thào
Giọt nước mắt lưu vong chợt trào
Tạm biệt Tổ quốc thương yêu… Của tôi”
(
Ông xúc động và chắt lưỡi thốt lên “hay
lắm!” không những vì giòng nhạc tôi mà còn vì giọng con gái ông là Thái Hiền
cao vút kết thúc câu tạm biệt tổ quốc thương yêu của tôi. Đến bây giờ, tôi vẫn
còn nhớ một hình ảnh của nhạc sĩ Phạm Duy ngồi sau tay lái chiếc xe và nỗi rung
động thiết tha với quê hương đang đau khổ. Cứ thế, hằng ngày, những câu chuyện
ông kể, từ đời sống âm nhạc của ông, lộ trình vượt thoát đến Mỹ, và đến nỗi đau
đớn dày vò suốt bao năm tháng dài khi 4 người con trai còn kẹt lại quê hương.
Ông cũng kể là cả hai ông bà
in roneo, loại giấy copy để đóng thành tập nhạc dạy đàn guitar do Phạm Duy biên
soạn để bán kiếm tiền sinh sống, và nhận lời đi hát dạo cho cộng đồng người
Việt phôi thai hình thành. Ban nhạc gia đình với Phạm Duy, Thái Hằng, Thái
Hiền, và Thái Thảo, ông luôn nghĩ là mình không lúc nào quên được cách để kiếm
tiền, hầu có phương tiện tìm cách cứu thoát Quang, Minh, Hùng, Cường còn lại
quê nhà.
Bà Thái Hằng còn cho tôi biết, những
ngày bận rộn sinh kế thì thôi, còn khi về đến nhà, là ông Phạm Duy nằm dài ra
thừ người, đau đớn, ray rứt với 4 người con trai mà ông đang suy tính tìm đủ
cách để đoàn tụ.
Ở đây tôi muốn nói đến tình
yêu con quá sức nơi nhạc sĩ Phạm Duy, cả nhà 10 miệng ăn, và từ khi còn ở Việt
Nam qua đến Mỹ, nhất nhất do bàn tay của ông làm ra, từ viết nhạc, viết bài và
làm những việc liên quan đến âm nhạc để nuôi sống gia đình. Các con của ông dựa
vào ông, chỉ vì yêu quá, săn sóc và lo lắng thái quá, do vậy đã dẫn đến tình
trạng sau này, là ông đánh đổi tất cả sự nghiệp âm nhạc tiếng tăm, để chọn một
lối thoát kinh tế cho các con khi về sinh hoạt trong một nước Việt Nam do cộng
sản cai trị. Và đó là một sự thực mà ít ai hiểu được.
Chế độ Việt Cộng và nhạc sĩ
Phạm Duy chơi “game” với nhau, cả hai lợi dụng nhau, và cả hai đều có đường
tính toán khác nhau. Chắc chắn một điều là Phạm Duy không thể nào theo cái gọi
là chủ nghĩa cộng sản, và ông đã nhận ra chế độ hiện nay ở Việt Nam, không còn
thứ cộng sản của thời Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, mà là cái vỏ bọc cộng sản che chắn
cho cái thực chất là chế độ tư bản đỏ, độc tài toàn trị và cái ruột chính vẫn
là mô hình tư bản kinh tế, hay rõ hơn là tham nhũng, bán tài sản quốc gia làm
giàu cho các lãnh tụ và phe cánh.
Ông Phạm Duy chọn một lối đi như tôi đã
nói ở phần trên là, lối đi kinh tế cho các con của ông sau này, mà nhìn phiến
diện đó là sự thoả hiệp dễ nhạy cảm phát sinh ra sự chê trách, chống đối từ
phía cộng đồng người Việt quốc gia, cái nôi đã cho ông hít thở, phát triển gần
như toàn diện sự nghiệp âm nhạc của ông. Do vậy, người ta giận dữ cũng chỉ vì
tiếc cho ông, một tài năng, một biểu tượng văn hoá còn sót lại của Việt Nam Cộng Hoà. Tôi đoan chắc là chỉ vì quá yêu thương
các con, ông đã chọn về Việt Nam trong chế
độ độc tài hiện hữu để có ba việc:
Thứ nhất: Cái chết của vợ là bà Thái Hằng đã làm ông
hụt hẫng năm 1999, dù ai nói ra sao về cuộc đời tình ái phiêu lưu thêu dệt của
người nhạc sĩ, nhưng, có lần ông cho tôi nghe ca khúc “Nắng Chiều Rực Rỡ” mà
ông bảo là viết riêng cho bà, vì cả ngàn ca khúc của ông chưa có bài nào viết
cho bà. Trong đó có câu “thế kỷ này, đang trong nắng ban chiều. Cho lòng
mình bâng khuâng nhớ nhau”. Ông bắt đầu cô độc thực sự sau ngày bà ra đi.
Thứ hai: Người già
cô độc, và đơn chiếc, dễ tủi thân mủi lòng, nếu ông mất sớm vào khoảng 70 tuổi
thì thôi không có chuyện nói đến, và bây giờ Phạm Duy vẫn là thần tượng, nhưng
ông sống đến trên 80 tuổi mà quê hương với ngày về thực sự vẫn xa vời vợi, chế
độ cộng sản chưa sụp đổ như bao người trông chờ, không biết đến bao giờ quay
trở lại cố hương. Ông mất sự kiên nhẫn, ông muốn về một lần rồi nhắm mắt xuôi
tay ở cái quê hương khốn khổ đã cho ông nếm trải nhục vinh rồi ra sao thì ra.
Thứ ba: Sau hết là cuộc sống các con, khi ông chết
rồi con mình sẽ ra sao, chẳng ai có nghề nghiệp cố định, chẳng ai có bằng cấp
gì cả, chỉ hoàn toàn sống bằng âm nhạc của chính ông dạy dỗ, tạo dựng. Và môi
trường hải ngoại thì không đủ điều kiện để các con sinh sống, làm thầy thì
không được, làm thợ thì khó, do vậy, ông lợi dụng chính sách gọi là “nghị quyết
36” hoà giải dân tộc để trở về, mở đường máu tồn tại và nuôi sống “âm nhạc của
ông và các con”, bất chấp sự phản đối, bất chấp, ông biết là người ta sẽ thất
vọng vì sự sụp đổ hình ảnh thần tượng nghệ sĩ quốc gia nơi ông.
Người nghệ sĩ Việt Nam đứng giữa hai lằn
đạn của hai chiến tuyến khác nhau trong mọi thời kỳ, dù chiến tranh hay hoà
bình hiện nay. Và người nghệ sĩ trong một giây khắc xúc cảm rất dễ trở nên yếu
đuối. Vì tâm hồn không yếu đuối, không thể là nghệ sĩ.
Cái còn lại, tôi nghĩ xa hơn,
một khi tâm hồn chúng ta yếu đuối, cần có nơi nương tựa, cần có nơi chở che.
Cộng đồng hải ngoại là nơi để nương tựa, nơi để thở than và mong nhận che chở.
Dù sao thì, cộng đồng chúng ta ở hải ngoại khi thương thì hết lòng, khi ghét
thì hết tình.
Ngay như bản thân tôi về ở Orlando,
Florida hơn 20 năm qua, chuyên làm kinh tế, nghĩa là lo đi làm ăn, mà vẫn không
yên, tôi hiểu con người ta, chỉ có một thiểu số có sự ganh ghét, đố kỵ, chụp mũ
và thiếu sự cảm thông. Do vậy, không riêng gì ông Phạm Duy, mà còn nhiều nữa,
cộng đồng nói chung, đôi khi vì quá nhiệt tình, quá sôi nổi, quá bức xúc vì chế
độ cộng sản Việt Nam, do vậy vô tình đã thiếu sự khoan dung, thiếu sự che chở,
không có trái tim bao dung che chở, nương tựa cho những nhà văn hoá, chính trị,
tôn giáo. Cuối cùng, chỉ xô đẩy người ta sống theo cách sống của họ là bất
chấp, và họ trở thành ích kỷ. Điều này đã xảy ra ở các hiện tượng Nguyễn Cao
Kỳ, Thích Nhất Hạnh và bây giờ là Phạm Duy.
Ông Phạm Duy đã nằm xuống,
nhắm mắt xuôi tay suốt 93 năm làm con người sống thở trên cõi đời này. Chắc
chắn là các báo lề phải trong nước sẽ có nhiều bài “vinh danh” ông, ca ngợi sự
nghiệp âm nhạc và con người ông. Chế độ cộng sản hiện nay luôn nhận vơ cho mình
những khuôn mặt lớn của văn học nghệ thuật, từ Văn Cao, Trịnh Công Sơn và bây
giờ là Phạm Duy là người của họ, là những kẻ thành danh do bởi chế độ, hoặc là
tài sản chung của đất nước. Bởi vì có mất mát gì đâu, khi một cái “Game” mà chế
độ lúc nào cũng là kẻ thắng bởi vì cầm quyền ban phát “xin và cho”.
Đây là một bài học cho giới làm nghệ
thuật một khi thoả hiệp trong một trận đấu “Game”.
Ở sao cho vừa lòng người
Ở rộng người cười, ở hẹp người chê!
Ở rộng người cười, ở hẹp người chê!
Châu Đình An
No comments:
Post a Comment