29 November 2012
Luật sư Lâm Lễ Trinh mạn đàm với cựu đổng lý QUÁCH TÒNG ĐỨC
LÂM LỄ
TRINH
| Tuy là
  bạn tâm giao với người viết từ lâu, ông Quách Tòng Đức luôn luôn tỏ ra dè dặt
  và thận trọng khi nhắc đến những năm dài làm Đổng lý Văn phòng cho Tổng thống
  Ngô Đình Diệm, vị lãnh tụ khai sáng nền Đệ nhứt Cọng hoà Việt Nam. 
Sau
  chính biến 1.11.1963, ông Đức trở lại ngành Tư pháp và được thăng chức Chủ
  tịch Tham Chính Viện 1969. Tháng 4.1975, Sàigòn thất thủ, ông và gia đình xin
  tị nạn chánh trị tại  
Ông về
  hưu đầu năm 1984. Nay 89 tuổi, trí tuệ còn minh mẩn tuy sức khoẻ không tốt
  như trước. Gần đây, trong những lần gặp nhau lại ở Pháp cũng như qua nhiều
  cuộc điện đàm có ghi âm, ông Đức đã chịu thố lộ với người viết nhiều điều
  liên hệ đến giai đọan chín năm phục vụ vị nguyên thủ quốc gia bị sát hại năm
  1963. 
Lần đầu gặp chí sĩ Ngô Đình Diệm 
Ông
  Quách Tòng Đức (QTĐ) sanh tại An xuyên năm 1917, thuộc một gia đình trung
  lưu, đậu cử nhân và Cao học Luật Đông Dương năm 1941, Đại học Hànội, sau khi
  lấy bằng tú tài tại trường Pétrus Ký, Sàigòn. Ông thuộc toán cử nhân đầu tiên
  gồm có Nguyễn Thành Cung và Lê Văn Mỹ thi đậu năm 1942 vào ngạch huyện, phủ
  tại Miền Nam VN mà cấp bậc cao nhứt là Đốc phủ sứ thượng hạng ngoại hạng
  tương đương với chức Tổng Đốc đứng đầu tỉnh ở ngoài Trung và Bắc.  
Khi vua
  Bảo Đại chỉ định Trần Văn Hữu lập Chánh phủ, Thủ hiến Nam Việt Thái Lập Thành
  (xuất thân là một Đốc phủ sứ như các ông Nguyễn Ngọc Thơ, Lê Tấn Nẩm, Dương
  Tấn Tài, Lê Quang Hộ ...) bổ nhiệm ông QTĐ năm 1951 làm Chánh Văn phòng và
  thiếu tá Dương Văn Minh, Chánh Võ phòng. Năm 1953, thủ hiến Thành và Thiếu
  tướng Chanson bị nhóm Cao Đài kháng chiến của Trình Minh Thế ám sát tại Sadec
  trong một cuộc kinh lý. 
49 ngày
  sau Điện Biên Phủ thất thủ, tức là 26.6.1954, Bảo Đại giao cho cựu Thượng thơ
  Ngô Đình Diệm lập chánh phũ, thay thế hoàng thân Bửu Lộc. Trước đây, ông Diệm
  đã ba lần từ chối lời mời của Bảo Đại: năm 1937, 1945 và 1948. Ông giao thiệp
  thân tình với nhà cách mạng Phan Bội Châu lúc sanh tiền, có ghé Nhựt năm 1950
  để hội kiến với Kỳ ngoại hầu Cường Để và, theo một số sử liệu, từng lãnh đạo
  Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội trong nước. Có lúc ông bị Việt Minh bắt giữ
  và - khác với Bảo Đại - đã cương quyết bác bỏ lời mời của Hồ Chí Minh làm Cố
  vấn cho Chánh phủ do Hồ dựng ra.  
Hiệp
  định Genève, ký ngày 20.7.1954, chia đôi VN nơi vĩ tuyến 17. Trong đám đông
  quần chúng đón tiếp nồng nhiệt Thủ tướng Diệm tại phi trường Tân Sơn Nhứt có
  ông Nguyễn Ngọc Thơ, nguyên bí thơ của Toàn quyền Decoux, cùng đi với ông
  QTĐ. Thủ tướng Diệm - kiêm luôn Quốc phòng và Nội Vụ - mời ông Thơ tham gia
  Nội các với tư cách Bộ trưởng Nội vụ. 
Ông Thơ
  chọn ông Đức làm Đổng lý Văn phòng năm 1954. Ngày 23.10.1955, một cuộc trưng
  cầu dân ý truất phế Bảo Đại. Ngày 26.10.1956, từ Thủ tướng trở thành Tổng
  thống, ông Diệm thiết lập nền Đệ nhứt Cọng hoà VN. Quân đội tổ chức một cuộc
  diễn binh huy hoàng tại đại lộ Trần Hưng Đạo Sàigòn dưới quyền điều khiển của
  Dương Văn Minh, vừa vinh thăng Thiếu tướng sau khi tảo thanh xong Bình Xuyên
  taị Rừng Sát. Ông QTĐ thay thế Đổng lý Tôn Thất Trạch cuối năm 1954 và giữ
  chức vụ này cho đến ngày Quân đội đảo chánh năm 1963. 
Nhận xét về mối liên hệ của TT Diệm
  với gia đình. 
Theo ông
  QTĐ, năm 1954 chánh phủ Pháp trả trước dinh Gia Long ở đường Gia Long, và sau
  khi quân đội Pháp rút khỏi Việt Nam, nhà cầm quyền Đệ nhứt cọng hoà mới thu
  hồi Dinh Toàn quyền Norodom, đổi tên thành Dinh Độc lập, trên đại lộ Thống
  nhứt. Dinh này đươc kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, khôi nguyên La Mã, xây cất lại
  hoàn toàn sau ngày 27.2.1962 vì Dinh bị hai phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn
  Văn Cử dội bom hư hại khá nặng. 
Dinh Độc
  lập chia làm hai tầng: tầng dưới có hai phòng khánh tiết tráng lệ và các Văn
  phòng của Cố vấn Ngô Đình Nhu, Bộ trưởng Phủ Tổng thống, Đổng lý Văn phòng,
  Tổng thơ ký Phủ Tổng thống và nhân viên. Tầng trên chia làm ba phần: phía
  trái dành làm Văn phòng và phòng ngủ của Tổng thống, phòng sĩ quan tuỳ viên;
  ở giữa có hai phòng tiếp tân khang trang; phiá phải là nơi cư ngụ của gia đình
  ông bà Nhu gồm có hai trai, hai gái. Tổng thống Diệm thích làm việc trong
  phòng ngủ, trang trí sơ sài vôùi một cái giường nhỏ bằng gổ, một bàn tròn và
  ba ghế da. Nơi đây, Tổng thống thường dùng cơm và tiếp các Bộ trưởng và tướng
  lãnh. 
Gia đình
  Tổng thống rất trọng Nho giáo. Hằng năm vào Tết Nguyên đán, luôn luôn tụ họp
  đông đủ ở Phủ Cam, Huế, để chúc thọ bà cụ Ngô Đình Khả giao cho người con áp
  út Ngô Đình Cẩn săn sóc ngày đêm. Ông bà Ngô Đình Khả có chín người con: 6
  trai, 3 gái. Trưởng nam, Tổng đốc Ngô Đình Khôi và con trai là Ngô Đình Huân
  bị CS giết năm 1945. Ba người con gái là bà Ngô Đình Thị Giao tức bà Thưà
  Tùng, bà Ngô Đình Thị Hiệp tức bà Cả Ấm, thân mẫu của Đức Hồng y Nguyễn Văn
  Thuận và bà Ngô Đình Thị Hoàng tức bà Cả Lễ, mẹ vợ của Nghị sĩ Trần Trung
  Dung. 
TT Diệm
  là người con trai thứ ba trong gia đình nhà Ngô, sanh năm 1901 taị Huế, được
  vua Bảo Đại bổ nhiệm năm 1933 Thượng thơ đầu Triều lúc 33 tuổi nhưng ông Diệm
  sớm rủ áo từ quan vì thực dân Pháp không chấp nhận chương trình cải tổ rộng
  lớn của ông. 
Sau ngày
  ông Khôi qua đơì, Tổng giám mục Ngô Đình Thục, trở nên người anh cả “quyền
  huynh thế phụ”. Đức cha được kính nể và có nhiều ảnh hưởng đối với TT Diệm.
  Ông QTĐ cho biết, lúc còn ở Vĩnh Long, Giám mục Thục vài tuần có về  
Văn
  phòng Đổng lý không làm việc thẳng với Cố vấn Nhu. Ông Nhu có nhân viên riêng
  trong Sở Nghiên cứu Chánh trị Phủ Tổng thống mà người giám đốc đầu tiên là
  đốc phủ sứ Vũ Tiến Huân, Tham lý Nội An Bộ Nội vụ, về sau thay thế bởi bác sĩ
  Trần Kim Tuyến. Văn phòng của Sở Nghiên cứu xử dụng một ngôi nhà riêng trong
  hàng rào Dinh Độc lập.  
Vài
  tháng trước vụ binh biến 1.11.1963, Tuyến bị thất sủng, trung tá Phạm Thư
  Đường thay thế. Tuyến được bổ nhiệm làm Tổng lãnh sự (hụt) tại Le Caire, trở
  lại VN và liên hệ đến một nhóm âm mưu đảo chánh. Đảo chánh thành công, bs
  Tuyến bị Hội đồng Cách mạng đày ra Côn Đảo (tỉnh trưởng là trung tá Tăng Tư)
  trên một năm cùng với lối 200 nhân vật chế độ củ gồm có Ngô Trọng Hiếu, Cao
  Xuân Vỹ, đại tá Nguyễn Văn Y, Hà Như Chi, Dương Văn Hiếu….  
Ông QTĐ
  không thể xác nhận tin nói rằng trước ngày 1.11.1963, ông Nhu đã giao cho
  người em vợ là Trần Văn Khiêm điều khiển cơ quan mật vụ. Khiêm bị nhiều tai
  tiếng, từng cọng tác với Văn phòng của luật sư Trương Đình Dzu, ứng cử viên
  Tổng thống thời Thiệu-Kỳ. Vụ Khiêm giết cha mẹ là ông bà cựu đại sứ Trần Văn
  Chương taị Hoa kỳ sau 1975 làm dư luận xôn xao. Toà án Mỹ tha Khiêm với lý do
  Khiêm bị bịnh tâm thần và trục xuất Khiêm khỏi Hoa kỳ. Khiêm hiện sống bình
  thường ở Pháp. Có sự điều đình chánh trị gì bên trong vụ án này? 
Khi được
  hỏi cách cư xử của TT Diệm với bà Nhu (nhủ danh Trần Lệ Xuân), ông Đức cho
  biết “ông cụ có vẻ nể và ủng hộ bà Nhu” trong vụ tổ chức Phong trào Phụ nữ
  Liên đới và vận động Quốc hội ban hành Bộ Luật Gia đình cấm ly dị. Tổng thống
  cho rằng bà Nhu hành động như vậy là giúp cải tổ xã hội. Tuy nhiên, những kẻ
  xấu miệng lại cho rằng Bộ Luật Gia đình nhằm mục tiêu riêng: ngăn luật sư
  Nguyễn Hữu Châu ly dị với vợ là Trần Lệ Chi, chị của bà Nhu.  
Ngoài
  chức vụ dân biểu Quốc hội, bà Nhu còn là chủ tịch Phong trào Phụ nữ Liên đới.
  Khi tiếp quốc khách, bà Nhu đóng vai trò Đệ nhứt Phu nhân vì Tổng thống độc
  thân.  
Tuy bất
  bình về những lời tuyên bố châm dầu vào lửa của người em dâu trong vụ Thích
  Quảng Đức tự thiêu ngày 11.6.1963 (đặc biệt với câu "monks'
  barbecue"), ông Diệm không công khai phủ nhận vì ngại đụng chạm đến ông
  Nhu vào một giai đoạn rối như tơ vò. Chính ông Nhu, với tánh hay nhường nhịn
  cho yên nhà yên cửa, cũng không kiểm soát nổi lối phát ngôn của vợ.  
Bà Nhu
  hiện có một cuộc sống kín đáo, đơn sơ, nặng về tôn giáo, qua lại giữa  
Thời
  gian gần đây, bà Nhu thay bà Luyện để tổ chức hằng năm tại  Về tin đồn Đức cha Thục làm kinh tài (khai thác lâm sản, mua thương xá Tax, làm chủ nhà sách Albert Portail..v..v..), ông Đức cho rằng TT Diệm tin TGM Thục không làm điều gì quấy, ngài phải kiếm tiền nuôi sống trường Đại học Đà Lạt do Ngài thành lập. Trải qua một cuộc đời sóng gió và gặp nhiều hiểu lầm với Toà thánh Vatican sau 1975, TGM Ngô Đình Thục được Giáo hoàng phục hồi chức tước, về hưu ở Hoa kỳ và đã ra đi bình yên tại một Viện dưỡng lão công giáo thuộc tiểu bang Missouri. 
Ông QTĐ
  xác nhận ông Ngô Đình Nhu chẳng những là lý thuyết gia mà còn là bộ óc của Đệ
  nhứt Cọng hoà, “l’homme indispensable, nhân vật cần thiết”. Ông xuất thân từ
  École des Chartes Paris, trầm tỉnh, ít nóí, lạnh nhạt bên ngoài, thích nghiên
  cứu lịch sử, có nhiều sách hơn đồng chí. Trong lối ba năm chót của chế độ, dù
  giữ quyền quyết định cuối cùng trong mọi việc, TT Diệm thường phê chuyễn các
  hồ sơ chánh trị quan trọng qua cho ông Nhu để lấy ý kiến, không kể những cuộc
  gặp mặt thảo luận riêng hằng ngày.  
Ông Nhu
  làm việc âm thầm, cần mẩn, hút thuốc liên hồi (mỗi lần nửa điếu, do sự can
  ngăn của bà Nhu) trong một văn phòng không rộng, đầy ngập sách vở, ánh sáng
  mờ mờ, ở tầng dưới Dinh Độc lập, có gắn máy lạnh và interphone với bên ngoài. 
Ông
  thường phê vào các công văn với một cây bút chì mỡ màu xanh lá cây. Ông là
  cha đẻ của Đảng Cần Lao, dựa vào thuy?t Nhn Vị, Personnalisme, đúc kết hai xu
  hướng của triết gia công giáo Emmanuel Mounier (1905-1950) và Jacques
  Maritain (1882-1973). Ông phát động và thực hiện kế hoạch quốc phòng Ấp chiến
  lược từng gây khiếp đảm cho CS Bắc Việt. Quốc sách này được thành lập bởi
  Nghị định số 11- 
Ông Nhu
  cũng cho thành lập Phong trào Thanh niên và Thanh nữ Cọng hoà giao cho Cao
  Xuân Vỹ phụ trách. Ông đẩy mạnh tổ chức Lao động ở Việt nam và nâng đở Trần
  Quốc Bửu. Đại tá  
Ông đại
  sứ Luyện, gốc kỹ sư, tánh tình cởi mở, thích giao du với bạn bè mỗi khi về VN
  nhưng không có nhiều ảnh hưởng vì không xen vào vấn đề nội trị. Ông là bạn
  học của cựu hoàng Bảo Đại, sống taị Luân đôn và đại diện VNCH ở nhiều xứ Âu
  châu và Phi châu. Sau khi vợ trước qua đời, ông Luyện tục huyền với em vợ và
  có rất đông con. Bà Luyện sống ở ngoại quốc nhiều hơn và ít khi xuất hiện.
  Sau 1963, ông Luyện daỵ toán taị một trường tư thục  
Cho đến
  cuối năm 1961, vai trò của ông Ngô Đình Cẩn, Cố vấn lãnh đạo Miền Trung, trái
  lại, rất hệ trọng về mặt an ninh và đoàn thể. Ông Cẩn không ăn học cao nhưng
  nắm vững tình hình địa phương, có óc tổ chức, luôn luôn trang phục theo lối
  Việt, áo dài, khăn đống, ăn trầu, (từ đó biệt danh “Ông Cố Trầu”), độc thân,
  thích hút thuốc Cẩm Lệ, đan rổ, làm vườn, nuôi thú, nuôi chim. Ảnh hưởng của
  ông lan vào Miền Nam với những điệp vụ mang danh nghĩa chiêu hồi của Đoàn
  Công tác Đặc biệt do Dương Văn Hiếu quán xuyến, sự hiện diện của Nguyễn Văn
  Hay trong cương vị phó TGĐ tại Tổng nha Cảnh sát Công An Sàigòn và các hoạt
  động của cánh Cần Lao do nha sĩ thân tín Phan Ngọc Các điều khiển.  
Sau
  1.11.1963, viên lãnh sự Mỹ Helble tại Huế không cho Cẩn và thân mẫu được tị
  nạn chánh trị tại Toà lãnh sự trong khi trước đó, cơ quan USAID Sàigòn chứa
  chấp Trí Quang nhiều ngày. Lúc vừa bị bắt, ông Cẩn có chỉ cho tướng Đổ Cao
  Trí tịch thu tại nhà ông ở Phú Cam, dưới gầm giường, "một bao bố và một
  va-li đựng quý kim" (đọc hồi ký Dòng họ Ngô Đình của Nguyễn Văn Minh, bí
  thơ của N Đ Cẩn, trang 307).  
Ông Cẩn
  bị Hội đồng Quân nhân Cách mạng, thời Nguyễn Khánh, xử tử vào lúc 6 giờ 30
  chiều ngày 9.5.1964 taị sân sau khám Chí hoà, Sàigòn. Luật sư bào chửa là Võ
  Văn Quan. Cố vấn Cẩn tỏ ra bình tỉnh tại pháp trường, tuyên bố tha thứ cho
  các người tuyên án ông và xin đừng bị bịt mắt nhưng không được chấp nhận. Nếu
  gia đình thỏa thuận lấy của đổi mạng, ông Cẩn có thể đã thoát chết. Vụ tống
  tiền này đã được cố nghị sĩ Trần Trung Dung và cố trung tướng Lâm Văn Phát
  xác nhận với người viết sau 1975. 
Được hỏi
  về tin đồn có sự cạnh tranh ảnh hưởng chánh trị giữa Nhu và Cẩn, ông QTĐ nói
  chỉ nghe nói phong thanh. Vào tháng 10.1963, ông Cẩn nhận được lệnh của TT
  Diệm ngưng mọi hoạt động về đoàn thể và đóng cửa Văn phòng Cố vấn chỉ đạo ở
  ngoài Trung gồm có Hồ Đắc Trọng và đại úy Nguyễn Văn Minh. Hình như sự hiện
  diện của TGM Ngô Đình Thục tại Huế đã bó tay ông Cẩn phần nào. Ông Cẩn không
  dám phê bình chị dâu tuy không ưa bà Nhu. Trong phạm vi cá nhân, ông Cẩn giữ
  liên lạc tốt với Thượng tọa Trí Quang nhưng điều này không giúp giải quyết
  cuộc khủng hoảng Phật giáo. Hoa kỳ và Cộng sản đã nhúng tay quá sâu. 
Người
  viết có yêu cầu ông QTĐ cho biết trong gia đình họ Ngô, ai là người gây tiếng
  tâm bất lợi cho chế độ. Suy nghĩ một phút, ông Đức đáp: TGM Thục và bà Nhu.
  Đặc biệt trong giai đọan Phật giáo. Đức cha ảnh hưởng quá nặng ngoài lãnh vực
  tôn giáo. Bà Nhu xen quá sâu vào chính trị, điều ít thấy trong giới phụ nữ
  VN. Ngó từ bên ngoài, năm anh em Ngô Đình rất khắn khít, mỗi người giúp tay
  tích cực xây dựng chế độ trong một lãnh vực. Sự đoàn kết ấy được diễn tả
  trong huy hiệu Đệ nhứt cọng hoà: năm cành trúc kết thành một bó, dưới khẩu
  hiệu “Tiết trực Tâm Hư.” 
Tuy nhiên, mỗi nhân vật có cá tánh riêng,
  nhận định không luôn luôn nhất thống, đôi khi còn mâu thuấn. Đó là hậu quả
  khó thể tránh trong một chế độ dựa vào gia tộc để lãnh đạo. Phe chống đối
  cũng như Hoa kỳ và Cộng sản đều khai thác triệt để và dễ dàng nhược điểm này. 
Dư luận
  cho rằng trong năm chót của chế độ, trước cuộc binh biến 1.11.1963, ông Nhu –
  trên thực tế – là một “Tổng thống không ngôi” vì có nhiều quyền lực, làm lu
  mờ vai trò của ông Diệm nhưng quyền bính hiến định vẫn ở trong tay ông Diệm
  bị tấn công tứ phiá, bên trong lẫn ngoài nước. Không có một văn kiện chánh
  thức nào bổ nhiệm ông Nhu lẫn ông Cẩn làm Cố vấn Chánh phủ. Chính các đoàn
  thể chánh trị ở Miền Trung mời ông Cẩn làm “Cố vấn Chỉ đạo” và dành cho ông
  danh xưng nầy. Có lúc dư luận cảm thấy ông Diệm cần ông Nhu hơn là ông Nhu
  cần ông Diệm. TT Diệm không thể tách rời khỏi ông Nhu đóng vai trò
  "l'âme damnée, linh hồn đày đọa". Đó là đầu mối thảm trạng xảy ra
  cho hai người vào giờ phút chót. 
TT Diệm
  tưởng lầm có thể dùng uy tín cá nhân để bảo vệ sanh mạng của bào đệ. TT Diệm
  cũng tưởng lầm khối tướng lãnh chấp nhận điều đình với ông. Phần đông tướng
  lãnh kính nể TT Diệm nhưng tất cả ngán sợ ông Nhu vì ông Nhu lắm mưu mô,
  nhiều bản lãnh. Sự ngán sợ đã trấn áp lòng nể trọng và dẫn đến quyết định hy
  sinh vị nguyên thủ quốc gia. 3 giờ trưa ngày 1 tháng 11, lúc tiếng súng đang
  nổ lớn , TT Diệm điện thọai cho đại sứ Lodge: Một cuộc điện đàm ngắn ngủi,
  đầy phẩn nộ trong khuôn khổ ngoại giao. 
Khi hay
  hai ông Diệm, Nhu thoát khỏi Dinh Gia Long đêm1.11.1963, nhóm phản lọan “run đến
  phát rét ” và một tướng cầm đầu định “trở cờ”, theo sự tiết lộ của Tổng thống
  Thiệu trước khi qua đời với người viết. Conein thúc phe phản lọan phải bắt
  sống cho kỳ được hai ông Diệm, Nhu. Conein nói suồng sã: “On ne fait pas
  l’omelette sans casser les oeufs, Không thể rán trứng mà không đập bể trứng !
  ”, theo Trần Văn Đôn kể lại trong Hồi ký. 
TT Diệm
  không chịu ra lệnh cho một số đơn vị võ trang trung thành phản công quân đảo
  chánh vì muốn tránh cảnh nồi da xáo thịt, làm suy giảm tiềm năng kháng cộng.
  4 giờ sáng ngày 2.11.1963, hai tư lệnh Quân khu thân tín ở Vùng I và II là
  tướng Đổ Cao Trí và Nguyễn Khánh tuyên bố ủng hộ Hội đồng Cách Mạng. Hy vọng
  cuối cùng tan biến.  
Hai giờ
  sau, Tổng thống cho phép đại úy Đổ Thọ, sĩ quan tùy viên, điện thoại cho chú
  y là đại tá Đổ Mậu yêu cầu cho xe đến đón tại Nhà thờ Cha Tam Chợlớn. Lúc 6
  giờ và 6 giơ 45 sáng ngày 2.11.63, TT Diệm đích thân điện thoại cho các tướng
  Minh, Đôn và Khiêm để tìm giải pháp cho cuộc khủng hoảng. Dương Văn Minh chỉ
  định Mai Hữu Xuân, Nguyễn Văn Quang, Dương Ngọc Lắm, Dương Hiếu Nghĩa và
  Nguyễn Văn Nhung (tên vệ sĩ đã từng thủ tiêu xác của Ba Cụt) đi đón, với chỉ
  thị riêng thanh toán hai ông Diệm, Nhu, trước khi về tới Bộ Tổng tham mưu.  
Thái thú
  Cabot Lodge nhắm mắt trước vụ mưu sát bỉ ổi này mà ông có dư quyền chận lại
  nếu muốn. Đây là một vết nhơ không bao giờ rửa sạch trong lịch sử đại cường
  Hoa kỳ. Tổng thống Kennedy (lãnh tụ đảng Dân chủ) quá yếu đuối, để cho thuộc
  hạ lật đổ ông Diệm một cách vô trách nhiệm, với sự a tùng của viên đại sứ đồ
  tể Cabot Lodge (thuộc đảng Cọng hoà).  
Mai Huu
  Xuân (đồ đệ của tên Cò khát máu Pháp Bazin) sống cô đơn, qua đời tại vùng Bắc
  Californie vì bịnh tim, nhiều hôm sau lối xóm mới khám phá được, báo cho cảnh
  sát. Đại tá Quang (gốc Đaị Việt và cấp trên của Dương Văn Minh trong Quân đội
  Pháp) thăng thiếu tướng, một thời gian ngắn thì chết vì bịnh lao phổi. 
Ông Nhu
  có thiện cảm với Pháp hơn với Mỹ, yếu tố văn hoá/ giáo dục ảnh hưởng nặng.
  Ông Diệm lại e dè với Pháp (qua kinh nghiệm thất vọng thời làm quan dưới
  triều thực dân) nhưng rốt cuộc, oái oăm thay, ông trở thành nạn nhân của Mỹ
  mà ông nghĩ là văn minh và nhân đạo hơn! 
Con người của chí sĩ Ngô Đình Diệm. 
Nhiều
  sách vở và tài liệu đã nóí về cuộc đời chánh trị và riêng tư của TT Ngô Đình
  Diệm. một lãnh tụ cương trực, khí khái, chống cộng cố hữu (anti-communiste
  invétéré) cũng như bướng bỉnh với đế quốc, bất luận Pháp, Tàu hay Mỹ. Theo
  ông QTĐ, TT Diệm có cái uy nghiêm riêng phát xuất từ một gương mặt phúc hậu,
  một tác phong cương nghị, một giọng Huế ấm áp, một lối nhìn thẳng vào người
  đối thoại. Một nốt ruồi đen thấy rỏ trên gò má dưới mắt trái của Tổng thống
  được các nhà tử vi xem như báo hiệu một số mạng nhiều buồn phiền và tang tóc.
  Ông không nặng lời hay gắt gỏng với cấp thừa hành, khi không vừa ý. 
Phong
  cách của TT Diệm làm cho những người tiếp xúc với ông phải kính nể. Sau cái
  bề ngoài trầm tỉnh, TT Diệm là một con người cuồng nhiệt, một hỏa diệm sơn,
  kiên trì trong mục đích, không nhân nhượng trên những đức tin căn bản. Trong
  chín năm làm việc tại Dinh, ông Đức cũng có dịp chứng kiến một ít trường hợp
  – vì lý do đặc biệt – Tổng thống thịnh nộ, quát tháo, đập bàn .. Những “trận
  bão” này, tuy nhiên, qua mau, Tổng thống tự kềm chế cấp thời vì bản tánh của
  ông bộc trực, không cố chấp, không thâm độc như Hồ Chí Minh. 
Ông có
  thể độc thoại hàng giờ khi nói đến những đề tài mà ông nghiền ngẫm như chủ
  thuyết cộng sản, ấp chiến lược, khu trù mật, dinh điền, cải tổ hành chánh,
  hay văn hoá Khổng Mạnh. Mái tóc đen nhánh, dáng người thấp, chân đi hai hàng
  lạch bạch nhưng mau lẹ. Rất sùng đạo, xem lễ mỗi buổi sáng tại hoặc một phòng
  riêng trong Dinh, hoặc nhà nguyện Dòng Chúa Cứu thế. Trang phục màu trắng, cà
  vạt đen quanh năm, không thay đổi. 
Làm việc
  bất chấp giờ giấc, với nhịp độ làm các người thân cận mệt nhoài. Khi có vấn
  đề khẩn, ông cho mời nhân viên hữu trách vào Dinh để đàm đạo thâu đêm. Bằng
  không, ông đọc phúc trình, hồ sơ đến khuya, uống trà, hút thuốc nhưng không
  bao giờ hút hết phân nửa điếu thuốc. 
TT Diệm
  kinh lý không biết mệt, có khi mỗi tuần đi suốt hai ba ngày, đến các tiền đồn
  hẻo lánh, làng Thượng xa xôi, xử dụng mọi phương tiện chuyên chở: máy bay,
  ghe, tàu, xe jeep, trực thăng….. Ông không hùng hồn trước đám đông nhưng rất
  thoải mái và thân mật ở giữa những nhóm nhỏ, không quan cách, không mị dân. 
Khi nhóm
  Hội đồng Nội các, Tổng thống Diệm thường ra ngoài chương trình ấn định, nếu tình
  cờ gặp một đề tài gây chú ý. Ông nói say mê, không đầu không đuôi, lắm khi
  không kết luận. Với tư cách thơ ký phiên họp, ông QTĐ ghi mệt tay. Lúc bế
  mạc, các bộ trưởng thường phải nhờ ông Đức tóm tắt vì suốt chín năm trời làm
  việc bên cạnh Tổng thống, ông Đức đã quen và rút kinh nghiệm, tuy đôi lúc
  cũng đoán lầm. 
TT Diệm
  sống rất nặng về lý tưởng. Con người Khổng giáo nghiêm khắc và Công giáo khổ
  hạnh nơi ông có những nhận xét lắm khi không sát thực tế. Ông thường nhắc
  rằng người cán bộ trung thành luôn luôn hy sinh vì đại cuộc mà không cần đến
  cơm áo, danh vọng và chức tước, một lời khen của lãnh tụ đủ gây mãn nguyện.
  Khổ nổi, không phải cán bộ nào cũng thánh thiện như thế. Cuộc nổi loạn năm
  1963 là một sự cải chính xót xa. Sánh với Hồ Chí Minh, ông Diêm là một lãnh
  tụ đức độ thiếu mưu lược, ghét xảo quyệt. 
Thú tiêu
  khiển của TT Diệm không nhiều vì thiếu giờ rảnh. Ông thích cỡi ngựa ở Đàlạt
  hay trong vòng rào của Dinh Độc Lập trong những năm yên ổn. Ông sưu tập máy
  ảnh, thích chụp hình và rất vui khi nhận được một máy lọai mới. Chủ tiệm chụp
  hình Hà Di thường được gọi vào Dinh về vấn đề chuyên môn.  
Tổng
  Thống ăn uống thanh đạm, thường bữa dùng tại ngay phòng ngủ, do ông già An và
  đại uý Nguyễn Bằng phục dịch, thực đơn ít khi thay đổi gồm có cơm vắt, muối
  mè, cá kho và rau. Tổng thống ít khi đau, lâu lâu cảm cúm, có bác sĩ Bùi Kiện
  Tín chăm sóc. Phòng nội dịch không đông nhân viên, do ông Tôn Thất Thiết phụ
  trách.  
Vấn đề
  tiền bạc riêng của Tổng thống thì giao trọn cho Chánh văn phòng đặc biệt Võ
  Văn Hải, ông Diệm không có nhu cầu lớn. Ông Hải, học trò cũ của GM Ngô Đình
  Thục, tốt nghiệp Trường Khoa học Chính trị Paris, cử nhân Hán học, rể của cựu
  Thượng thơ Nguyễn Khoa Toàn, theo sát Tổng thống Diệm từ lúc còn bôn ba ở hải
  ngoại và được ông Diệm thương như con. 
Ông Hải
  chính là người được TT Diệm chỉ định ngày 11.11.1960 ra trước cổng Dinh Độc
  Lập tiếp xúc với các sĩ quan phản lọan Nguyễn Chánh Thi - Vương Văn Đông để
  tìm hiểu yêu sách của họ. Hải chống ông bà Nhu và bác sĩ Tuyến, giám đốc Sở
  Mật vụ và cũng không thích ông Cẩn. 
Ông Đức
  còn thêm: Vài hôm sau 1.11.1963, ông có chứng kiến vụ Hải lập biên bản trao
  cho đại úy Đặng Văn Hoa, chánh văn phòng của tướng Trần Văn Đôn số tiền của
  TT Diệm giao cho Hải cất giữ. Ông Đức không biết số tiền này được bao nhiêu
  và lọt vào túi của ai.  
Nội hai
  trang cuối cùng của hồi ký Việt Nam Nhân chứng, Trần Văn Đôn có ghi rỏ Hải đã
  trao hai số bạc mặt 2.390.000 đồng và 6.297 Mỹ kim, Dương Văn Minh lấy 6.000
  đô và chia cho Trần Thiện Khiêm 297 đô. Số bạc VN được phân phát cho Tôn Thất
  Đính, Lê Văn Kim, Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh, Nguyễn Hữu Có, Nguyễn Văn
  Thiệu, Phạm Ngọc Thảo, Trần ngọc Tám và Trần Thiện Khiêm, riêng Đôn có nhận
  24.500 đồng. 
Khi phe
  quân nhân lên cầm quyền, Võ Văn Hải có can đảm tổ chức nhóm “Tinh thần Ngô
  Đình Diệm” và ra ứng cử dân biểu taị Sàigòn nhưng thất cử. Năm 1974, không
  hiểu vì sao Hải lại xoay qua, cùng với Tôn Thất Thiện, ủng hộ nhiệt tình
  tướng Dương Văn Minh là người ra lệnh hạ sát hai ông Diệm, Nhu. Hải qua đời
  trong một trại giam Bắc Việt sau 1975, đem theo nhiều điều bí mật chưa hề
  tiết lộ. 
Về câu
  hỏi TT Diệm liên hệ ra sao với đảng Cần Lao, ông QTĐ cho biết ông Diệm chỉ để
  ý theo dõi hoạt động của Phong Trào Cách Mạng Quốc gia (tổ chức nồng cốt của
  chế độ từ lúc đầu) và Liên đoàn Công chức Cách mạng, một tổ chức ngoại vi của
  Chánh phủ. Về chuyện thành lập và sinh hoạt của đảng Cần Lao, TT Diệm giao
  hết cho hai ông Nhu và Cẩn.  
Trong
  các năm chót của chế độ, kế hoạch Ấp chiến lược cũng do ông Nhu hoàn toàn
  phụ trách, Tổng thống không lưu ý đến như đã từng lưu ý đến kế hoạch Dinh
  điền hay Khu Trù mật. Các gương mặt nổi trong hoạt động Cần Lao gồm có các
  ông Huỳnh Văn Lang, Trần Kim Tuyến, Lê Văn Đồng, Huỳnh Hữu Nghĩa, Lê Quang
  Tung, Đổ Mậu, Nguyễn Văn Châu, Đổ Kế Mai, Nguyễn Trân ..v..v..  
Bs Tuyến
  làm việc với ông Nhu, ít khi gặp Tổng thống, trừ trường hợp đặc biệt. Quyết
  định đưa Cần Lao vào Quân đội – tức là chính trị hoá Quân đội – làm yếu Quân
  đội vì phá vỡ hệ thống quân giai và làm nản lòng các sĩ quan chuyên nghiệp.
  Quân đội chỉ biết có Tổ Quốc. Và phục vụ tổ quốc mà thôi. 
Vụ công điện số 9159 cấm treo cờ Phật
  giáo và sự trở mặt của các sĩ quan thân tín. 
Trong
  quyển hồi ký “ Dòng họ Ngô Đình”, xuất bản năm 2003 tại California, tác giả
  Nguyễn Văn Minh, nguyên bí thơ (1956-1963) của cố Ngô Đình Cẩn, ghi nơi trang
  164-165:   
Lối 10
  hôm sau vụ nổ lựu đạn giết 7 em bé và một số Phật tử tại đài phát thanh Huế
  nhân ngày lễ Phật Đản 1963, Dương Văn Hiếu, trưởng đoàn Công tác đặc biệt
  Miền Trung, vào Dinh để phúc trình với TT Diệm, ông Diệm nói với Hiếu như sau
  về vụ treo cờ Phật giáo: “Sau đó tôi mới bảo Quách Tòng Đức gởi công văn nhắc
  các tỉnh, chứ tôi có cấm chi mô! Không hiểu tại răng hắn để tới ngày chót mới
  gởi công điện. Khi xảy chuyện, tôi kêu vô hỏi, hắn xin thôi.  
Công
  chuyện đổ bể như ri rồi, xin thôi thì ích chi?”. Nguyễn Văn Minh còn viết
  thêm ý kiến của Tôn Thất Đính: “Ông Đức đã gởi đi một công điện mà không tham
  khảo ý kiến ông Cố vấn Ngô Đình Nhu.. Lẽ nào lại tự tiện đánh đi một công
  điện như vậy nếu không được tình báo Mỹ tổ chức?” 
Được hỏi
  nghĩ sao về những đoạn trích dẫn trên đây, ông QTĐ tỏ vẻ rất ngạc nhiên. Ông
  xác quyết không bao giờ có nhận được lệnh của ông Diệm thảo và gởi cho các
  Tỉnh trưởng công điện số 9159 đề ngày 6.5.1963 do ông Nguyễn Văn Minh nêu ra,
  với nội dung “ chỉ thị cho các cơ quan phụng tự (nhà thờ, chùa chiền..chỉ
  treo cờ Quốc gia mà thôi” (nguyên văn). Trước đó, việc treo cờ được giải
  quyết bởi hai nghị định số 78 và 189 của Bộ Nội vụ (năm 1957 và 1958) và một
  sắc lệnh đầu năm 1962 của Phủ Tổng thống nhắc nhở quần chúng tôn trọng Quốc
  kỳ. 
Ông Đức
  kể lại: Tháng tư 1963, sau một cuộc thị sát vào mùa lễ Phục Sinh, TT Diệm có
  chỉ thị cho ông Đức gởi thông tư lưu ý các giới chức Tỉnh về thể thức treo
  quốc kỳ VN trong các ngày lễ đạo, không phân biệt tôn giáo nào: treo trước
  cổng giáo đường, ở chính giữa và phiá trên, đúng kích thước, còn các cờ đạo
  và cờ đoàn thể thì ở vị trí thấp hơn. Thông tư nhấn mạnh: phiá trong các giáo
  đường, chùa chiền và những nơi thờ phượng, giáo kỳ được treo tự do, không giới
  hạn. Lệnh của Tổng thống được phổ biến ngay ngày hôm sau. 
Theo ông
  QTĐ, đầu tháng 5.1963, tại Huế, xảy ra một điều đáng tiếc: Để lấy điểm trong
  lễ Ngân khánh 25 năm thụ phong giám mục của Đức cha Ngô Đình Thục, nhà chức
  trách hành chánh địa phương đã cho treo cờ Vatican "loạn xạ", bất
  chấp thông tư nói trên. Một tuần sau - ngày 8.5.1983 - vào lễ Phật Đản, các
  Phật tử cũng tự tiện treo cờ Phật giáo như thế. Hôm sau, Tỉnh trưởng Thừa
  Thiên trở lại thi hành thể thức treo cờ trong thông tư của Phủ Tổng thống nên
  gây sự phẩn nộ của Phật tử vì họ cho rằng đây là một biện pháp bất công, kỳ
  thị. Tại Miền  
Ông Đức
  còn nhớ rất rành mạch rằng, sau thảm kịch tại Đài Phát thanh Huế chiều ngày
  8.5.1963, Tổng thống có đòi ông vào Văn phòng để đưa cho ông xem, với một
  gương mặt “mệt nhọc, buồn rầu và chán nãn”, công điện ngày 6.5.1963 nói trên
  và hỏi “một cách sơ sài” ai đã gởi đi chỉ thị ấy. Ông Đức trả lời không biết
  vì trong sổ công văn gởi đi không có dấu vết của tài liệu vừa kể.  
Theo ông
  QTĐ, trong hoàn cảnh chánh trị dồn dập sôi động lúc đó (Thích Quảng Đức tự
  thiêu, Quách Thị Trang bị bắn chết tại chợ Bến Thành, lựu đạn nổ ở Huế, tướng
  lãnh lập kiến nghị đòi cải tổ, việc kiểm soát chùa..v..v..) TT Diệm rối trí,
  không còn màng đến việc ra lệnh điều tra.  
Ông có
  lẽ dư biết việc giả tạo công điện 9159 là một đòn phép mới của phe chống
  Chánh phủ ( Phật giáo Ấn quang? Tình báo Hoa kỳ? Đảng phái đối lập? hay Cộng
  sản?). Vậy việc ông Đức xin từ chức là một điều thất thiệt. Nghi “tình báo Mỹ
  tổ chức”ông Đức – như tướng Đính ởm ờ xuyên tạc – là một chuyện tưởng tượng
  rẻ tiền. 
Để tỏ
  thiện chí dàn xếp, Chánh phủ đồng ý cho hai Ủy ban Liên bộ và Liên phái công
  bố một thông cáo chung ngày 16.6.1963 xác định những điểm đã thỏa hiệp về
  việc treo cờ Phật giáo và Quốc kỳ, hứa xét lại Dụ số 10 trước Quốc hội vào
  cuối 1963, tạm ngưng áp dụng Nghị định của Phủ Tổng thống số 116/ 
Trong
  hồi ký “Ngô Đình Diệm, Nổ lực hoà bình dang dở”, (nxb Xuân Thu Californie
  1989), nơi trang 189-190, Nguyễn Văn Châu, nguyên giám đốc Nha Chiến tranh
  Tâm lý Quân đội VNCH, trở thành đối lập với Chánh phủ trước cuộc binh biến
  1.11.1963, có ghi lại: Sau
  1975, một cựu đại uý Hoa kỳ tên James Scott, liên hệ với  
Sự kiện
  này cũng được Trần Kim Tuyến, dưới bút hiệu Lương khải Minh, ghi lại trong
  hồi ký Làm thế nào giết một Tổng thống? (tập 2, trang 366-370). Theo trung
  tướng Trần Thiện Khiêm xác nhận với Marguerite Higgins, tác giả quyển sách
  Vietnam, Our nightmare, chương VI, Nguyễn Khánh (nắm quyền sau cuộc chỉnh lý
  30.1.1964) đã hy sinh thiếu tá Đặng Sỹ, phó Tỉnh trưởng Nội an Thừa Thiên, để
  Thich Trí Quang trì hoãn chống đối. Toà án Mặt trận xữ Sỹ khổ sai chung thân. 
Tình
  trạng giữa TT Diệm và Mỹ căng thẳng kể từ mùa hè 1962, nổ lớn tại Huế với vụ
  Phật giáo 8.5.1963. Qua tháng 7, tin đồn đảo chánh lan rộng. Ngày 21.8.1963,
  đại sứ Lodge trình ủy nhiệm thơ và bắt đầu móc nối với tướng lãnh.  
Sau ngày
  Lực Lượng Đặc Biệt của đại tá Lê Quang Tung lục soát chùa chiền, các tướng tin
  cẩn của TT Diệm đều đổi lòng theo phe phản loạn, trừ ông Cao Văn Viên trước
  sau như một. Ông Đức cảm động khi được biết đại tướng Viên (hiện ở Hoa Thịnh
  Đốn) đã xác nhận với người viết rằng sau ngày 30.1.1964 Nguyễn Khánh chỉnh lý
  ê-kíp Dương Văn Minh, Nguyễn văn Nhung, kẻ giết hai ông Diệm-Nhu, - từ đại úy
  thăng thiếu tá - bị An ninh Quân đội bắt vào giao cho Lực lượng Nhãy Dù của
  Tư lệnh Cao Văn Viên canh giữ. Nhung “đã tự treo cổ bằng một sợi giây giày
  trong khám đường”, theo lời tướng Viên. 
Được
  hỏi: trong các tướng thường vô ra Dinh Độc lập, ai là người được sủng ái
  nhứt, ông QTĐ đáp không do dự: “ Tôn Thất Đính và Trần Thiện Khiêm, mà Tổng
  thống xem như người nhà!” Điều này không ngăn Đính và Khiêm đóng vai trò
  chính yếu trong cuộc đảo chánh 1.11.1963, hệ trọng hơn cả Dương Văn Minh được
  chọn làm bình phong. 
Chính
  Trần Văn Đôn, với tư cách người móc nối, đã tiết lộ trong hồi ký “Việt Nam
  Nhân Chứng”, rằng Đôn có dò xét tâm ý của Đính và đến gặp Khiêm bốn lần, lần
  đầu vào tháng 9.1963, và Khiêm có cho Đôn biết “ông ta cũng có một kế hoạch
  riêng do Mỹ chủ trương”. Đôn viết (nguyên văn): “Tôi khuyên ông ta không nên
  bàn với Mỹ một việc quan trọng như vậy, nên bỏ kế hoạch ấy đi!”(trang 193).  
Trong
  những biến cố quân sự liên tiếp làm hỗn loạn Miền Nam từ 1.11.1963 cho đến
  ngày Tổng thống Thiệu cầm quyền, tướng Trần Thiện Khiêm đứng sau màn giựt
  giây chiếu theo lời xác nhận của một số nhân chứng hàng đầu khả tin. Tới nay,
  ông Khiêm không đính chánh mà cũng không tiết lộ gì cả. Liệu tướng Khiêm sẽ
  ra đi như tướng Thiệu, mang xuống tuyền đài những bí ẩn đau thương của Đệ nhị
  Cọng hoà Miền  
Theo
  QTĐ, Dương Văn Minh không sâu sắc về chánh trị tuy thời cuộc đưa lên ghế Quốc
  trưởng hai lần: sau 1.11.1963 (nhờ Mỹ giúp) và tháng tư 1975 (với sự đồng ý
  của Bắc Việt). Lần đầu, Minh tại chức ba tháng; lần sau, được 40 giờ, rồi đầu
  hàng địch vô điều kiện.  
Với tư
  cách Bộ trưởng Nội vụ, tác giả bài này được chỉ thị đích thân điều tra mật về
  trường hợp tẩu tán kho vàng Bảy Viển chứa trong một thùng kẻm lớn, theo phúc
  trình của đại tá Nguyễn Văn Y, Tỉnh trưởng Chợ lớn, phụ tá hành quân cho ông
  Minh trong cuộc tảo thanh Rừng Sát. Người viết có mời tướng Minh đến giải
  thích. Vì lý do chánh trị, hồ sơ tạm xếp. Bộ Tư lệnh Hành Quân bị giải tán,
  tướng Minh được cử làm Cố vấn Quân sự Phủ Tổng thống, một chức vụ tượng
  trưng. 
Từ đó, ông
  cảm thấy không yên tâm với “chiếc gươm Damoclès treo trên đầu”, ông hận chế
  độ – đặc biệt cố vấn Nhu - vô ơn sau khi ông đã chống Nguyễn Văn Hinh, ủng hộ
  Thủ tướng Diệm, giúp dẹp Bình Xuyên và bắt nạp Ba Cụt. 
Một lý
  do khác gây nghi ngờ đối với tướng Minh là cơ quan tình báo quốc gia bắt đủ
  bằng chứng về mối liên hệ thầm lén giữa ông Minh và người em CS là thiếu tá
  Dương Văn Nhựt. bí danh Mười Ty. Một người em khác của tướng Minh là Trung tá
  QĐVNCH Dương Văn Sơn cũng đã chứa chấp vợ chồng Nhựt và đóng vai trò liên lạc
  ở trong và ngoài xứ. Cục trưởng Trung ương Tình báo và Tổng giám đốc Cảnh sát
  Công an Nguyễn Văn Y, hiện ở Virginia, đã xác nhận với người viết có đích
  thân trình hồ sơ Dương Văn Minh cho TT Diệm xem. Tổng thống liền ra lệnh hủy
  bỏ hồ sơ nầy "trước mắt ông" vì không muốn cho Hoa kỳ biết, “xấu
  hổ.” (sic). 
Hoa kỳ và Cabot Lodge đã khai thác
  mối thù riêng của tướng Minh đối với cá nhân hai ông Diệm, Nhu để lật đổ Đệ
  nhứt Cọng hoà và thay ngựa giữa giòng. Hoa kỳ cũng dư biết Minh có liên hệ với
  Bắc Việt nên áp lực Trần Văn Hương trao quyền gắp lại cho D V Minh – trái với
  Hiến pháp - hầu tạo lý do cho Mỹ chuồn sớm khỏi VN.  
Nguyên
  đại tá Nguyễn Linh Chiêu, hiện ở Huntington Beach, Californie, kể lại với tác
  giả bài này: Năm 1983, ông có gặp tướng Minh tại Paris, hỏi vì sao thủ tướng
  Vũ Văn Mẫu cuối tháng 4.1975 lại hấp tấp ra thông cáo buộc quân Mỹ phải rút
  trong vòng 24 giờ? Tướng Minh đáp – trước mặt nhân chứng Trần Văn Đôn - đã
  làm “theo lời yêu cầu của đại sứ Mỹ Graham Martin.” Các sự kiện trên đây cho
  thấy tướng Dương Văn Minh chỉ là một con rối trong tay Hoa kỳ, Pháp và Bắc
  Việt. Minh đã giúp Hoa kỳ tràn vào VN bằng cách tuân lệnh đảo chánh ông Diệm.
  Mười hai năm sau, cũng chính Minh giúp Quân đội Mỹ tháo chạy. Nguyên TT Trần
  Văn Hương đã thẳng thắn phát biểu: “Minh không phải là con người thích hợp
  với cảnh dầu sôi lửa bỏng của Đất nước!” 
Năm
  1988, đại tướng Minh được Hoa kỳ cho phép rời  
Nguyễn
  Khánh là một sĩ quan thân tín có công “cứu Chúa” trong vụ binh biến
  11.11.1960 khi giữ chức Tham mưu trưởng Bộ Tổng tham mưu. Ông nuôi cao vọng
  thay thế Tổng tham mưu trưởng Lê Văn Tỵ. Sau khi thăng Thiếu tướng tạm thời tại
  mặt trận, ông được đưa lên Cao nguyên hẻo lánh để trấn Quân khu 2 và Vùng 2
  chiến thuật. Ông Khánh sanh bất mãn, vì thế tuyên bố trên đài phát thanh lúc
  bốn giờ sáng ngày 2.11.1963 ủng hộ phe đảo chánh.  
Theo
  tướng Khánh kể lại với người viết: đêm 1.11.1963, ông Diệm và ông Nhu có điện
  thoại từ Chợ Lớn lên Pleiku cố thuyết phục ông Khánh cầm quân về Sàigòn giải
  cứu nhưng ông Khánh trả lời “Quá trể và ở quá xa.”. Câu hỏi đặt ra: Nếu tướng
  Khánh nhận về “cứu giá”, nếu TT Diệm trì hưởn xuất hiện sáng 2.11.1963 và nếu
  sự cứu giá thành công, thì thời cuộc liệu thay đổi ra sao? Mọi việc tùy thuộc
  biết bao nhiêu chữ “nếu”!  
Sau hết,
  với người viết, tướng Khánh còn than phiền TT Diệm không giữ lời hứa (viết
  tay) trao quyền lại cho Quân đội sau cuộc binh biến 11.11.1960. Đây là một sự
  kiện khác mà tướng Khánh hẳn không quên. Trong một buổi lễ long trọng truy
  điệu cố TT Ngô Đình Diệm taị thủ phủ Little Sàigòn, Californie, tướng Nguyễn
  Khánh không tiếc lời ca tụng TT Diệm như một anh hùng dân tộc mà ông ngưỡng
  mộ và quyết chí noi gương. 
TT Diệm
  nể trọng đại tướng Lê Văn Tỵ, người duy nhứt trong Quân đội được kêu bằng
  Ngài. Phiá dân sự, cách xưng hô này chỉ áp dụng đối với Phó TT Nguyễn Ngọc
  Thơ và Bộ trưởng Ngoại giao Vũ Văn Mẫu, nhân vật cạo đầu năm 1963 để phản đối
  trong vụ Phật giáo. 
Tướng nào giỏi đóng tuồng và chuyên
  “trở cờ”? Tuy không thân cận với giới tướng lãnh, ông Đức có thể trả lời theo
  một nhận định chung: Trần Văn Đôn (em
  út của Tây con Nguyễn Văn Hinh và là người từng công khai đốt lon sĩ quan
  Pháp để tỏ lòng trung thành với TT Diệm) và Tôn Thất Đính (con cưng của chế
  độ trở giáo đâm sau lưng chế độ. Một Brutus hay một Juda? ).  
Ai thâm độc nhứt? Đổ Mậu. Ông Mậu -
  một cột trụ Cần Lao - thú nhận đã mọp lạy trước ông Đính (cũng là Cần lao
  gộc) để van xin Đính theo quân nổi loạn. “Đại tá muôn năm” Đổ Mậu hận vì TT
  Diệm cho rằng ông không đủ văn hoá để tiến cao hơn.  
Người
  viết có dịp hỏi nguyên Thủ tướng Nguyễn Khánh nghĩ sao khi chọn Mậu lãnh đạo
  Bộ Văn hoá không thích hợp chút nào với trình độ của y thì tướng Khánh nheo
  mắt cười, trả lời: Mậu tự ti mặc cảm nhưng đầy cao vọng và được một số Phật
  tử ủng hộ lúc đó. Việc bổ nhiệm này khuyến khích Mậu cọng tác sốt sắng và
  đồng thời biến Mậu thành trò cười của quần chúng! Đây là một “đòn chánh trị”
  quen thuộc của Nguyễn Khánh, kịch sĩ từng đả đảo Hiến chương Vũng Tàu do
  chính ông cho thảo ra.  
Một đòn
  khác của tướng Khánh: móc nối với Huỳnh Tấn Phát, lãnh tụ Mặt trận Giải phóng
  Miền Nam, với chủ đích – theo lời tuyên bố của Khánh – kéo Phát về phiá Quốc
  gia. Điều này bị Nguyễn Thị Bình phủ nhận hoàn toàn trong hồi ký Chung Một
  Bóng Cờ, (nxb Chính trị Quốc gia, Hànội 1993). Chẳng những thế, trang 453-454
  của hồi ký còn tiết lộ Nguyễn Khánh đã vận động Hoa kỳ cúp viện trợ và bỏ rơi
  TT Thiệu, Khánh công khai đi đêm với Mặt trận trong giai đoạn chót của Hiệp
  định Paris. 
“TT Diệm
  có thích được nịnh hót hay không?” Ý kiến của Ông Đức: Tại Bắc Việt, Cộng sản
  đã thần tượng hoá Hồ Chí Minh. Trong Nam, cũng có khuynh hướng ấy đối với ông
  Diệm, dưới nhiều hình thức, đặc biệt trong Phong trào Cách mạng Quốc gia với
  số đoàn viên tăng từ 10,000 năm 1955 lên đến 2 triệu năm 1963, tổ chức đến
  tận xã, phường. 
Bộ
  trưởng Thông tin Trần Chánh Thành bỏ hàng ngũ kháng chiến về cọng tác với ông
  Diệm từ lúc đầu như Trần Hữu Phương, Trần Lê Quang…..Ông có công xây dựng
  Phong trào CMQG, tổ chức Chiến dịch tố cộng và đề xướng “Suy tôn Ngô Tổng
  thống”.  
Bất
  thuận với Trần Kim Tuyến, Thành rời Nội các cuối năm 1959. Ba bộ trưởng khác
  ra đi cùng một lúc vì, với ông Thành, lập hồ sơ truy tố một số cán bộ Cần lao
  dân sự và quân sự lộng quyền: Trần Trung Dung (Quốc phòng), Nguyễn Văn Sĩ (Tư
  pháp) và người viết (Nội vụ). Bộ Thông tin bị đổi thành Nha Tổng Giám đốc
  Thông tin do bác sỉ (Cần lao) Trần Văn Thọ phụ trách.  
Ngày
  30.4.1975, ông Thành (Nghị sĩ và Ngoại trưởng thời Nguyễn Văn Thiệu) tự tử
  bằng thuốc độc tại nhà để tránh sa vào tay CS còn bs Tuyến thì được nhà báo
  điệp viên Việt cộng nằm vùng Phạm Xuân Ấn lấy xe chở đến một địa điểm dùng
  trực thăng Mỹ thoát khỏi VN. Tuyến định cư tại Anh quốc nhờ bà Tuyến làm việc
  cho Tòa Đại sứ Anh ở Sàigon. Tuyến làm chủ một nhà trọ bed and breakfast gần  
Theo ông
  QTD, TT Diệm cởi mở, bình dân trong những năm đầu chấp chánh nhưng về sau,
  trở nên khó tánh và khép kín hơn. Ảnh hưởng của quyền lực? hoàn cảnh ? giới
  cận thần a dua? Qua ba giai đọan Quốc Hội Lập Hiến, Quốc Hội Lập Pháp kỳ 1 và
  Quốc Hội Lập Pháp kỳ 2, nền Đệ nhứt Cọng hoà đi lần vào bế tắc.  
Trong
  gia đình, ông bà Trần Văn Chương, nhạc gia của ông Nhu, - chồng, đại sứ VNCH
  taị Hoa Thịnh Đốn và vợ, quan sát viên tại Liên Hiệp Quốc - lợi dụng chức vụ
  để phản tuyên truyền và đả kích kịch liệt Chánh phủ Sàigòn và luôn cả vợ
  chồng ông Nhu. Bác sĩ Trần Văn Đổ, chú vợ của cố vấn Nhu, và luật sư Nguyễn
  Hữu Châu, nguyên bộ trưởng Phủ Tổng thống kiêm Bộ trưởng Nội vụ, anh em bạn
  cột chèo với ông Nhu, cũng không còn ủng hộ ông Diệm. 
Ls Châu
  đào thoát qua  
Ông QTĐ
  tỏ ra dè dặt đối với dư luận cho rằng TT Diệm kỳ thị Phật giáo. Ông cho biết
  TT Diệm thường tiếp xúc với các vị tu hành thuộc mọi tôn giáo, đặc biệt Phật
  giáo; không bỏ qua dịp viếng thăm một số chùa như chùa Sư Nữ của Sư bà Diệu
  Huệ (mẹ giáo sư Bữu Hội) ở Phú Lâm, chùa Diệu Đế ở Huế..v..v.. 
Chính
  ông Đức đã nhiều lần chuyển đến tay ông Mai Thọ Truyền, chủ chùa Xá lợi và
  Hội trưởng Hội Phật giáo Nam Việt những số tiền giúp đở. Một chuyện mà ít
  người biết là TT Diệm đã hiến cho Đức Đạt Lai Lạt Ma trọn số tiền 15.000 mỹ
  kim, giải thưởng Leadership Magsaysay tặng cho Tổng thống. Vì lý do chánh
  trị, quyết định này không được công bố. 
Ủy ban
  tôn giáo Liên Hiệp Quốc được Chánh phủ Saigòn mời đến điều tra năm 1963 cũng
  đã phúc trình - sau ngày hai ông Diệm, Nhu bị giết - rằng Đệ nhứt Cọng hoà
  không kỳ thị tôn giáo. Mặt khác, TT Diệm đã từng thẳng thắn bác bỏ những yêu
  sách quá đáng của các giáo phẩm di cư, bởi thế nên có sự bất mãn ngấm ngầm.
  Hai Giám mục Phát Diệm, Bùi Chu Lê Hữu Từ và Phạm Ngọc Chi chống đối ra mặt. 
Cho đến
  ngày TT Diệm qua đời, phần đông các người phục vụ sát cạnh bên Tổng thống
  hàng ngày đều thuộc thành phần Phật giáo: Đổng lý (QTĐ), Tổng thơ ký Nguyễn
  Thành Cung, Chánh văn phòng Võ Văn Hải, bí thơ Trần Sử, nội dịch Tôn Thất
  Thiết, cận vệ Nguyễn Bằng….. 
Vấn đề thủ
  tiêu các người đối lập và việc tiếp xúc của ông Nhu với đối phương Cộng sản. 
Sau
  chánh biến 1.11.1963, Hội đồng Quân nhân Cách Mạng tố cáo chánh quyền Diệm đã
  thủ tiêu một số ngưới đối lập như Nguyễn Bảo Toàn, Tạ Chí Diệp, Vu Tam Anh,
  Hồ Hán Sơn, ..v..v.. QTĐ tuyên bố không biết gì về những chuyện này thuộc
  thẩm quyền các cơ quan công an, tình báo. 
Tuy nhiên, ông tin chắc rằng ông Diệm
  không bao giờ đích thân chủ trương như vậy vì Tổng thống là một tín đồ Công
  giáo thuần thành, phân biệt tội phước, không khát máu như Cộng sản mà ông
  tích cực chống đối. Có thể một số nhân
  viên an ninh cuồng tín đã hành động để lấy điểm (excès de zèle) hay giải
  thích sai lầm chỉ thị cấp trên.  
Một bằng
  chứng cụ thể là TT Diệm chỉ ra lệnh giam chớ không cho xữ tử Hà Minh Trí, một
  cán bộ Cao Đài, mưu sát hụt ông tại Ban Mê Thuột và gây thương tích cho Bộ
  trưởng Đổ Văn Công. Hà Minh Trí được Hội đồng Cách Mạng trả tự do khi họ đã
  giết TT Diệm. Câu hỏi nêu ra là cuối cùng, TT Diệm có hay biết các vụ thanh
  toán toán đối lập hay không và phản ứng thế nào? Dù sao, lịch sử vẫn đặt vấn
  đề trách nhiệm tinh thần đối với ông. 
Trong
  giai đoạn chót của chế độ, có tin đồn trong quần chúng và báo giới Mỹ rằng cố
  vấn Ngô Đình Nhu đi đêm với CS kháng chiến để tìm ra giải pháp giữa Nam, Bắc.
  Chính ông Nhu có đề cập đến chuyện này trong vài phiên nhóm với tướng lãnh
  tại Bộ Quốc phòng và ngày 23.7.1963 taị suối Lồ Ồ khi nóí chuyện với các cán
  bộ xây dựng Ấp Chiến lược khoá 13. Một nguồn tin khác cho biết ông Nhu xử
  dụng trung gian cuả bốn đại sứ Roger Lalouette (Pháp), d’Orlandi (Ý),
  Goburdhun (Ấn dộ) và Manelli (Ba Lan), (hai ông sau là thành viên của Ủy ban
  Quốc tế kiểm soát đình chiến) cũng như Tổng lãnh sự Pháp ở Bắc Việt Jacques
  de Buzon để liên lạc với Hànội. 
Ông QTĐ
  nói có nghe dư luận này nhưng không biết rỏ chi tiết. Ông cũng có nghe xầm xì
  rằng ông Nhu đã gặp một đại diện Văn phòng Chính trị CS (Phạm Hùng?) trong
  lần đi săn tại Quận Tánh Linh, Bình Tuy. Ông Đức nghĩ đây chỉ là một đòn
  chiến thuật của ông Nhu để dằn mặt Hoa kỳ, Tổng thống Diệm không bao giờ chấp
  nhận giải pháp điều đình với Hồ Chí Minh.  
Hơn nửa,
  Hiến pháp VNCH có ghi rỏ chủ trương của Miền Nam Việt  
Những ngày chót của Tổng Thống Diệm.
  Các cận thần cuối cùng. 
42 năm
  trôi qua, mọi công dân VN, ủng hộ hay chống đối ông Diệm, đều cảm thấy nhục
  nhã khi đọc lại những lời thú nhận sống sượng của tướng Trần Văn Đôn, đầu não
  trong chánh biến 1.11.1963 và tác giả của quyển hồi ký “VN Nhân Chứng” (nxb
  Xuân Thu, Californie, 1989) về vai trò Hoa kỳ chỉ huy vụ lật đổ và sát hại
  một lãnh tụ đồng minh. Đôn viết: “Đúng 1 giờ 30 trưa, (trùm Xịa) Conein vào
  bộ Tổng Tham mưu, (nơi đặt văn phòng của Đôn) mang theo một máy truyền tin
  đặc biệt để liên lạc với Toà Đại sứ Mỹ và một bao tiền là ba triệu bạc VN”
  (trang 211). Đôn còn tuyên bố khi y thậm thọt gặp riêng Thái thú Cabot Lodge
  để thỉnh thị: “Chúng tôi (nhóm đảo chính) không bao giờ có tham vọng cá nhân,
  chỉ muốn cứu nước!” (trang 210) 
Trong
  hồi ký VN Nhân Chứng, đọan chót, Trần Văn Đôn cho biết ba triệu bạc -cái giá
  rẻ mạt để thay đổi một thế cờ! - đã chia cho Dương Văn Minh, Lê Văn Kim, Tôn
  Thất Đính, Nguyễn Hữu Có, Đổ Cao Trí, Nguyễn Khánh , Trần Ngọc Tám và Lê
  Nguyên Khang. 
Ông Đức
  tỏ ra ngán ngẩm khi được hỏi nghĩ gì về sự tự thú trên đây. Theo ông, trong
  những ngày chót của một cuộc đời đấu tranh gian khổ, TT Diệm là con người cô đơn nhứt trên thế
  gian: dân tộc bỏ rơi, đồng minh phản bội, gia đình chia cách, kẻ thù cộng sản
  reo hò chiến thắng, sự nghiệp chính trị ra tro, uất hận ngất trời vì tương
  lai mù mịt của Đất nước, một quốc gia bị sức mạnh chèn ép. Với ông Nhu
  quỳ bên cạnh cầu nguyện trong Nhà thờ Cha Tam Chợ Lớn sáng ngày 1.11.1963.
  không chắc TT Diệm đồng một tâm tư với người em. 
Ông Đức
  bùi ngùi nhắc lại: Tối 1.11.1963, khi tiếng súng nổ rền khắp nơi, ông và gia
  đình rời khỏi nhà riêng ở số 8 đường Lê Văn Thạnh, Sàigòn, ngủ đêm tại Chợ
  Lớn, không xa căn phố lầu của Mã Tuyên, nơi Tổng thống và ông Nhu tạm ngụ. Sáng
  hôm sau 2 tháng 11, trô lại nhà thì được hay Tổng thống có điện thoại tối hôm
  trước nhưng người giữ nhà trả lời không biết ông Đức ở đâu. Vài giờ sau,
  ra-dô báo tin hai ông Diệm, Nhu “tự tử”, điều mà Đức không tin chút nào. Đến
  nay, ông Đức vẫn ân hận vì không được tiếp xúc lần chót với Tổng thống. 
Hỏi:
  Trong Nội các, ai được Tổng thống Diệm tin cậy nhứt những ngày, tháng cuối
  cùng? QTĐ đáp: Nguyễn Đình Thuần và Trương Công Cừu. Thuần kiêm ba trọng
  trách: Bộ trưởng taị Phủ Tổng thống, Bộ trưởng phụ tá Quốc phòng, và Bộ
  trưởng Đặc nhiệm Phối hợp An ninh. Cừu là Bộ trưởng Đặc nhiệm Phối hợp Văn
  hoá Xã hội. Ngoài ra, còn có Ngô Trọng Hiếu, Bộ trưởng Công dân vụ, từng là
  đại sứ VNCH ở Nam Vang, bị Chánh phủ Cam bốt trục xuất vì giúp cho tướng Đap
  Chuon đảo chánh (hụt) Quốc vương Sihanouk. Tên ông Hiếu nằm trong bản danh
  sách của Cabot Lodge ghi các nhân vật cần thanh toán, theo hồi ký nêu trên
  của trung tá Nguyễn Văn Châu. 
Ông Đức
  không ngạc nhiên cho lắm khi được người viết cho biết một số tài liệu giải
  mật taị Hoa kỳ tiết lộ Thuần là tay trong thân tín của  
Một số
  nhân vật rất gần Dinh Độc lập cho biết Thuần dùng đủ mưu chước để thu hút cảm
  tình của TT Diệm và từ đó, tìm cách ly gián ông Diệm và ông Nhu trong giai
  đọan chót của chế độ. Ông QTĐ ngạc nhiên khi hay chính Đệ nhị Phòng Pháp đã
  giúp Thuần trốn khỏi VN. Cố Ứng Thi, chủ của Khách sạn Rex và bạn thân của
  Thuần, xác nhận với người viết điểm vừa nói. Thuần hiện sống thong dong taị  
Tác giả
  bài này thắc mắc: không lẽ một ngưởi tinh vi như ông Nhu mà không nhận ra mặt
  trái của Nguyễn Đình Thuần? Ông Đức trả lời: Có thể ông Nhu không mù quáng
  nhưng ở vào thế kẹt lúc đó, không còn ai liên lạc để dò xét âm mưu đen tối
  của Hoa kỳ, ông Nhu phải “tương kế, tựu kế.” xử dụng Thuần. Ông Nhu cũng đã
  áp dụng chiến thuật này (kế hoạch chống đảo chánh Bravo) để tìm cách chi phối
  nhóm tướng bị Mỹ mua chuộc. 
Ông Đức
  cho biết thêm: Linh mục Cao Văn Luận cũng là một cố vấn thân tín của Tổng
  thống được giao phó ra nước ngoài xin tài trợ về giáo dục, tìm kiếm trí thức
  Việt đưa về nước và tổ chức Viện Đại học Huế mà ông là Viện trưởng đầu tiên.
  Trong giai đoạn khủng hoảng Phật giáo, dư luận cho rang cha Luận đã trở mặt,
  ngã theo phe chống chánh quyền. Chẳng những thế, ông còn viết hồi ký “Trong
  giòng lịch sử “ để nói xấu TT Diệm và đề cao Hồ Chí Minh. Tình đời đen bạc! 
Ông QTĐ
  quả quyết không bao giờ gặp Vũ Ngọc Nhạ (mà CS tuyên bố phịa trong quyển sách
  và bộ phim giả tưởng Ông Cố Vấn gài được vào Dinh Độc Lập!) Trả lời về các
  cán bộ gốc Cộng sản cọng tác với chế độ, ông Đức cho biết Kiều Công Cung –
  nguyên tư lệnh một sư đoàn Việt cộng – đã tỏ ra xứng đáng đến cùng trong chức
  vụ Đặc ủy chiêu hồi. Phạm Ngọc Thảo – mà Tổng Nha Công an có hồ sơ – được bổ
  nhiệm đại úy Bảo An, sau đó Tỉnh trưởng Kiến Hoà và thanh tra dinh điển. Hai
  chuyên viên Mỹ về Giáo dục và Dinh điền thường lui tới Dinh và ăn sáng với
  Tổng thống là giáo sư Wesley Fishel thuộc Đại học  
Trần Văn
  Đôn ghi nơi trang 182 của hồi ký “Việt Nam Nhân Chứng”: Trong một buổi học
  tập chính trị taị bộ Tổng Tham Mưu trước chính biến 1.11.1963, ông Nhu nóí,
  sau khi nghe các tướng lãnh trình bày thỉnh nguyện, : “Mấy anh muốn cải tổ
  chánh phủ mà xin như vậy đâu có nhiều. Muốn làm cách mạng thật sự, tôi tưởng
  các anh phải xin nhiều hơn. Ông Diệm bị kẹt với một số Bộ trưởng thối nát bất
  tài. Trong lúc này Quân đội phải nhận rỏ vai trò của mình để cứu nước, nên
  đảo chánh một đêm bắt mấy ông Bộ trưởng đó rồi hôm sau trao quyền lãnh đạo
  lại cho Tổng thống. Nếu có vị tướng nào muốn đảo chánh thì quân đội phải
  chống lại, phải bắt người đó mà treo cổ trên đường Công Lý.” 
Đâu là
  sự thật? Nếu đúng, thì đây có phải là ván bài tố xả láng của ông Nhu để dò
  xét và sập bẩy nhóm tướng tạo phản? Hay một nhìn nhận chua chát chế độ đang
  tuột dốc thê thảm, đưa dân tộc vào một trận đại hồng thủy? Tổng thống Ngô
  Đình Diệm có thể đã phạm một số sai lầm nguy hại khi cầm quyền – điều này sẽ
  được sử sách phê phán công và tội – nhưng không một ai – từ đồng minh Hoa kỳ
  cho đến Hồ Chí Minh – chối cải rằng ông là một lãnh tụ yêu nước, trong sạch,
  có khí phách và không làm dân tộc VN hổ thẹn vì ông đã cố bảo vệ đến cùng thể
  diện và quyền uy quốc gia.  
Không
  một gia đình Việt  
Hay tin
  TT Diệm bị sát hại, Mao Trạch Đông phản ứng bằng nhận xét: “ Chính quyền
  Kennedy hạ ông Ngô Đình Diệm là một thất sách, một sai lầm rỏ rệt!” Và Hồ Chí
  Minh tuyên bố: “Ông Diệm là một nhà yêu nước, theo lối của ông ấy!” Trong hồi
  ký The Real War, chương V, Richard Nixon viết: Tổng thống Pakistan Ayub Khan
  nóí với tác giả vài ngày sau vụ đảo chánh 1.11.1963: “Việc Tổng thống Diệm bị
  giết có ba ý nghĩa đối với nhiều người Á Đông: trở thành bạn Hoa kỳ là một
  nguy hiểm, trung lập có giá hơn và đôi khi tốt hơn là kẻ thù.”  
Riêng về
  De Gaulle thì ông nhận định: ‘Sau Diệm, không phải là một khoảng trống mà là
  một sự quá đầy!” De Gaulle muốn nói: Miền  
Đối với
  thế hệ lãnh đạo mai sau, sự thất bại của TT Diệm – mà đồng minh Hoa kỳ lẫn kẻ
  thù Cộng sản đều xem như một mối đe dọa cần triệt hạ - là một bài học quý báu
  về kinh nghiệm chống Đế quốc, về Nhân tình thế thái và thân phận của một nước
  nhược tiểu.  Học giả Denis Warner từng cho ông biệt danh "The Last Confucian, Người hiền triết Khổng giáo cuối cùng”. TT Diệm là một thầy tu lạc lõng giữa chính trường gió tanh mưa máu, gánh trên vai thánh giá của Quê hương đau khổ. Lịch sử trước sau gì cũng sẽ ban cho ông Công Lý. 
Sau
  tháng 4.1975, hai ngôi mộ của TT Diệm và Cố vấn Nhu được cải táng từ nghĩa
  trang Mạc Đỉnh Chi, Saigon, về quận Lái thiêu, tỉnh Bình Dương. Mộ bia của TT
  Diệm có khắc chữ Huynh. Mộ bia của Cố vấn Nhu khắc chữ Đệ. Hai nắm mồ khiêm
  nhường, quạnh hiu, thiếu người chăm sóc, kết thúc một cuộc đời đấu tranh khắc
  nghiệt, đầy oan trái nhưng chắc chắn không phải là một hy sinh vô bổ trên bàn
  thờ Tổ Quốc. 
Kết luận  
Ông bạn
  Quách Tòng Đức chấm dứt buổi nói chuyện thân tình bằng một lời than chua xót:
  Dĩ vãng buồn nhiều hơn vui, phá hoại nhiều hơn xây dựng, hận thù thay vì đoàn
  kết. Đến nay, Đất nước chưa thấy lối thoát, những bài toán của Xứ sở chưa tìm
  ra đáp số. Ngày nào Cộng sản vẫn bám víu vào quyền lực thì quốc nhục chậm
  tiến còn kéo dài. Thế cuộc xoay vần. Lý thuyết chánh trị, chế độ, lãnh tụ,…
  rồi cũng phải trở về với cát bụi. Vanitas vanitatum, omnia vanitas, Hư danh,
  tất cả đều là hư danh! Cuối cùng chỉ còn lại Dân tộc, Dân tộc trường tồn, Dân
  tộc bất diệt. 
Lưu đày,
  dù trên mãnh đất dân chủ, chưa phải là Tự do. Người Việt tha hương, vào tuổi
  gần đất xa trời, vừa đau buồn hướng về Đất Mẹ, vừa thao thức tự vấn như Thôi
  Hiệu trong bài thơ Đường Hoàng Hạc Lâu : 
Chiều
  xuống, Quê nhà đâu đó tá? 
Bên
  sông khói toả, não lòng ai.  
(Chi
  Điền dịch) 
LÂM LỄ
  TRINH 
Thuỷ Hoa
  Trang | 

 
No comments:
Post a Comment